1.B

2.

+ Quang cảnh trường mọi sự bình lặng như một buổi sáng chủ nhật.

+ Không khí lớp học có cái gì đó khác thường, trang trọng. Thành phần tham dự lớp học cũng khác: có cả những người dân làng, ai nấy đều có vẻ buồn rầu, thầy Ha – men ăn mặc trang trọng hơn mọi ngày: mặc chiếc áo ranh đơ gốt màu xanh, diềm lá sen, gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dung trong những hôm thanh tra hoặc phát phần thưởng.

+ Thái độ của thầy Ha – men cũng khác: Phrang đi trễ nhưng thầy vẫn nhẹ nhàng nhắc nhở cậu bé vào chỗ. Giọng nói của thầy vô cùng xúc động và trang nghiêm. Thầy bước lên bục giảng với giọng nói dịu dàng và trang nghiêm.

3.

 Ban đầu, chú bé Phrăng rất sợ vì đi học muộn, khi nhân thấy: "Thấy Ha-nen đi đi lại lại với cây thuốc sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Thái THỞ CỨU đi vào giữa sự lãng suất đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sự đến chứng nào?". Sau đó, lại thấy. “Thế mà không. Thủy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu tháng …”. Tiếp theo là liên tiếp những ngạc nhiên: ngày nhiên “nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo ra đánh cột”; “Nhưng điều làm tối ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trắng...". Rồi sau đó, chú bé choáng váng sau khi “thủy Ha-men đã bước lên. bục, nổi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào", thấy thông báo về sự kiện theo lệnh “từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren... Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con.”.

Tử việc hiểu ra cái mệnh lệnh của “Quân khốn nạn ... vừa niêm yết ở trụ sở xã.", chú bé ngồi suy nghĩ và thấy ân hận vì chuyện học tiếng Pháp của mình, tư nhiên chú cảm thấy: “Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố trí mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ.”.

Rồi cứ thế, chủ ngồi nghĩ mông lung, cho đến khi thầy Ha-men gọi tên chú đọc bài, nhưng chú đã lúng túng, đọc không to và dõng dạc, “cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lỏng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên”.

Cuối cùng, chú như bừng tỉnh sau khi nghe lời thầy Ha-men nói về tiếng Pháp: “đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó”.

Tử giờ phút ấy, Phrăng như thay đổi hoàn toàn về tinh thần và thái độ học tiếng Pháp: “Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế”.

Thái độ và tình yêu tiếng Pháp hết mực của chú bé được thể hiện ở các chi tiết trong giờ tập viết, tất cả đều hết sức tập trung, “ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thế trong suy nghĩ rất ngây thơ mà đáng trân trọng của chú bé khi nghĩ đến tiếng chim bồ câu gù trên mái nhà trường: “...chim bồ câu gà thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ: “Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhi?”. Phrăng sợ rằng khi tất cả phải học và nói bằng tiếng Đức, thì đến tiếng chim gù cũng phải là tiếng Đức.

Kết thúc phần (4), Phrăng nghĩ: “Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!”. Đây chính là biểu hiện rõ nhất tâm trạng và tình cảm, thái độ của chú bé đối với tiếng Pháp.

4. Trong phần (5), phần cuối của truyện, có nhiều chi tiết miêu tả đặc sắc: thầy Ha-men “người tái nhợt”, “nghẹn ngào, không nói được hết câu”, “cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!” và “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói”, chỉ “giơ tay ra hiệu”,... Các chi tiết này đã giúp tác giả khắc hoạ được tình yêu vô bờ của thầy Ha-men đối với tiếng Pháp. Đó cũng là tình yêu nước sâu đậm của thầy đối với nước Pháp.

Lòng yêu nước của thầy Ha-men được thể hiện trong bối cảnh đặc biệt: “Nước Pháp ra đi” vì thất thủ trong cuộc chiến chống quân Phổ. Đó là nỗi đau mất nước, nỗi nhục nô lệ và nỗi xót xa vì không được quyền nói tiếng nói của dân tộc trên chính đất nước mình. Điều đó được thể hiện tập trung và cá biệt hơn trong bối cảnh là một thầy giáo dạy quốc văn ngày cuối cùng được dạy tiếng nói của dân tộc.

Bối cảnh, tâm trạng đó là điều kiện để lòng yêu nước trong thầy được biểu hiện một cách đặc sắc. Những chi tiết miêu tả hình dáng, cử chỉ của thầy ở phần cuối buổi học đã diễn tả sâu sắc điều đó. HS cần cảm nhận và chỉ ra được diễn biến tâm trạng của thầy qua trình tự tăng cấp của hình tượng miêu tả từ sắc mặt “tái nhợt” đến hành vi nghẹn lời “không nói được hết câu”, “dằn mạnh” viên phấn, “cố viết thật to”, rồi cuối cùng là “đầu dựa vào tường”, “chẳng nói” và chỉ “giơ tay ra hiệu”. Nỗi đau được thể hiện cụ thể bằng cảm giác cơ thể, như hiện hình trên da thịt. Sự xúc động đến tái mặt, run người, không nói nên lời của thầy Ha-men cho thấy Tổ quốc thiêng liêng và có ý nghĩa biết bao trong tâm hồn thầy, kết tinh trong tiếng nói dân tộc mà thầy hằng dạy.

5.

- Bài học về tình yêu tiếng mẹ đẻ, bài học về lòng yêu nước.

6.

a) Nội dung chính của đoạn trích là miêu tả lại không khí của giờ tập viết tiếng Pháp trong buổi học cuối cùng.

b) Với đoạn trích này, tác giả muốn làm nổi bật tình yêu tiếng mẹ đẻ của các em học sinh sau khi được thầy Ha-men truyền giảng. Với các em, tiếng Pháp là tất cả: “Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc, những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp...”.

Tác giả dùng cái động để nói về cái tĩnh (tiếng ngòi bút chạy trên giấy, tiếng côn trùng bay vào cửa sổ, tiếng bồ câu gù khẽ,... làm nổi bật không khí trang nghiêm, yên lặng khác thường của lớp học); đến lượt cái tĩnh ấy lại là nền cho những xao động cuộn sóng trong lòng người về buổi học cuối cùng, về tình cảnh mất chủ quyền đất nước, mất cả tiếng nói của cha ông, quyền dạy và học tiếng nói của dân tộc mình...