Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ ở Việt Nam. Đây cũng là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình.Không biết chèo có từ bao giờ, chỉ biết từ lâu lắm rồi chèo đã gắn liền với đời sống sinh hoạt và văn hóa của con người Bắc Bộ. Và trong tâm thức của nhiều người, chèo là hình thức nghệ thuật đặc sắc của Thái Bình..
Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ ở Việt Nam. Đây cũng là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Nó được này sinh và phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ. Tích truyện được khai thác từ truyện cổ tích và truyện Nôm. Nó đề cao đạo đức, tài năng của con người, thông cảm với số phận nhân vật kịch, châm biếm, đả kích trực tiếp những điều bất công, xấu xa trong xã hội phong kiến. Nhân vật truyền thống: thư sinh nho nhã, nữ chính đức hạnh, nết na; nữ lệch lẳng lơ, mụ ác tàn nhẫn, độc địa; hề chèo...Nhân vật chèo khi bước ra sân khấu phải tự xưng danh rồi mới bước vào diễn tích. Tính chất ước lệ và cách điệu của chèo thể hiện rất cao qua nghệ thuật hóa trang, hát, múa của các nhân vật.
Không biết chèo có từ bao giờ, chỉ biết từ lâu lắm rồi chèo đã gắn liền với đời sống sinh hoạt và văn hóa của con người Bắc Bộ. Nhiều tài liệu khẳng định rằng, chèo ra đời ở vùng châu thổ Bắc Bộ và định hình ở bốn trấn là Đông (xứ Đông), Đoài (xứ Đoài), Nam (xứ Nam), Bắc (xứ Bắc). Chiêng chèo xứ Nam ngày xưa gồm các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên và Thái Bình ngày nay. Những nghệ sĩ chèo cốt cán hầu hết xuất thân từ Thái Bình với danh tiếng vang xa từ Bắc vào Nam như cụ Trùm Thịnh, cụ Lý Mầm, cụ Cả Tam, cả Ngũ, bác Năm Ngũ,...
Ở thời kì hưng thịnh nhất, tức là trước cách mạng tháng Tám, những phường chèo, gánh chèo, hội chèo nở rộ khắp Thái Bình đông đảo để đáp ưng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của bà con lối xóm, trong hội làng. Chính những yếu tố ấy khiến cho nghệ thuật chèo nở rộ, sự sáng tạo cả về làn điệu, hình thức diễn xướng không ngừng phát triển. Khi đó, có ba vùng chèo: chào Hà Xá, chèo Sáo Dền, chèo Khuốc chỉ ở Thái Bình. Nhưng hiện tại, theo sự chảy trôi của thời gian và sự đào thải khắc nghiệt của cuộc sống, ở Thái Bình giờ chỉ chèo làng Khuốc là còn hoạt động, còn chèo Hà Xá và chèo Sáo Dền từ lâu đã không còn.
Nói về chèo của Thái Bình, Ông Bùi Văn Ro, người làng Khuốc, chia sẻ: “Việt Nam có hai nơi hát chèo là Ninh Bình Và Thái Bình. Người giữ được tổ nghề là người Thái Bình cho nên vẫn giữ được 28 làn điệu chèo độc đáo chưa được phổ biến và chỉ người làng chèo Khuốc mới hát được làn điệu đó. Nghề này ở địa phương không phải là nghề kiếm sống mà tổ tiên giao cho mình rồi thì mình phải có trách nhiệm với nghề nghiệp”.
Cái hay, cái khéo của chèo khiến người xem mê mẩn chính là sự kết hợp khéo léo từ những điệu hát, nói, hát bỏ trong sinh hoạt nghệ thuật dân gian vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng: xoan ghẹo, chèo tàu tương, hát giặm,...Phong cách chèo Thái Bình là sự sáng tạo về quy cách của phần đệm. Dàn nhạc của tuồng chèo Thái Bình khác dàn nhạc ở chỗ, có bốn loại nhạc cụ đi cùng để đệm là nhị, trống đế, trống cơm và mõ. Dù là vậy, nhưng mỗi cây trong dàn nhạc khi đệm đều phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt, chứ không đơn thuần muốn đệm khi nào thì chêm xen vào khi ấy. Chẳng hạn, tiếng mõ - âm thanh độc đáo của điệu chèo Thái Bình, phải đánh đều, giữ nhịp trường canh, ở tốc độ nhanh và rất nhanh, tạo sự căng thẳng và tính kịch cho âm nhạc.Hay như đệm với trống, những chỗ giai điệu hát ngân hoặc ngừng nghỉ mới được phép điểm dìu lên mặt, đánh trống lúc nghệ nhân mở miệng hát là điều cấm kỵ. Cùng một làn điệu như nhau nhưng phong cách chèo Thái Bình hát mộc mạc giản dị hơn, phụ âm hư tự và nguyên âm luôn cân bằng âm lượng. Cùng một tiết tấu nhưng chèo Thái Bình rộn rã, xáo động hơn. Lối hát Thái Bình không đi sâu vào nhịp phách phức tạp, không nhả chữ theo lối khôn ngoan nhà nghề, không làm lẫn phụ âm.
Cho đến tận ngày nay, những nghệ sĩ chèo Thái Bình vẫn miệt mài, say nghề, yêu nghề để gìn giữ một nét bản sắc văn hóa độc đáo của mảnh đất này. Tuy không còn được phổ biến rộng rãi tới mọi tần lớp như thời xưa, song ngày nay, dưới những nỗ lực và cố gắng không ngừng của cả nghệ sĩ và chính quyền, sân khấu chèo đang ngày càng đến được gần hơn với công chúng. Người ta biết đến chèo nhiều hơn, biết đến loại hình sinh hoạt dân khấu dân gian với những tiết tấu, các hình thức diễn xướng mang đậm chất của người Việt. Để rồi, khi nhắc về Thái Bình, những người con của mảnh đất ấy có thể tự hào vì những làn điệu chèo của làng Khuốc, của sự sáng tạo và của văn hóa dân tộc.