Vùng biển nước ta bao gồm: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Mỗi vùng đều có giới hạn và đặc điểm khác nhau, để hiểu rõ hơn Trắc nghiệm Online giới thiệu đến bạn đọc cách xác định vùng biển Việt Nam..

1. Nội thủy

  • Nội thủy là vùng nước ở phía trong đường cơ sở để tính lãnh hải của mối quốc gia. Ngày 12/11/1982, Chính phủ nước ta đã ra tuyên bố quy định đường cơ sở ven đường bờ biển để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
  • Việc xác định các điểm chuẩn là các đảo ven bờ và các mũi đất dọc bờ biển để vạch đường cơ sở của nước ta được dựa trên cơ sở pháp lí phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.

2. Lãnh hải

  • Theo tuyên bố của Chính phủ nước ta ngày 12/5/1977, lãnh hải Việt Nam có chiều rộng 12 hải lí. (1 hải lí = 1852m)
  • Ranh giới phía ngoài lãnh hải được coi là biên giới quốc gia trên biển. Trên thực tế, đó là các đường song song và cách đều đường cơ sở về phía biển 12 hải lí.

3. Vùng tiếp giáp lãnh hải

  • Tiếp giáp lãnh hải là vùng biển được quy định nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chủ quyền của một nước ven biển.
  • Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước ta có chiều rộng 12 hải lí. Trong vùng này Nhà nước ta có quyền thực hiện các biện pháp để bảo vệ an ninh quốc phòng, kiểm soát thuế quan, các quy định về y tế, môi trường, di cư, nhập cư,....

4. Vùng đặc quyền kinh tế

  • Vùng đặc quyền kinh tế là vùng hợp với lãnh hải có chiều rộng 200 hải lí tính từ đường cơ sở.
  • Ở vùng này, Nhà nước ta có chủ quyền hoàn toàn về kinh tế nhưng vẫn để các nước khác được đặt các đường ống dẫn dầu, dây cáp ngầm và tàu thuyền, máy bay nước ngoài được tự do về hàng hải và hàng không, đúng như các công ước quốc tế về Luật biển quy định.

5. Thềm lục địa

  • Thềm lục địa nước ta bao gồm đáy biển và lòng đất dưới biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, có độ sâu khoảng 200m hoặc hơn nữa. Nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa, có độ sâu cách đường cơ sở không đến 200 hải lí thì thềm lục địa nơi ấy được tính cho đến 200 hải lí. Nhà nước ta có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lí các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam.