Bài viết tập làm văn số 2 - ngữ văn lớp 11 đề: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ). Sau đây, TracNghiem.Vn gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo..
[toc:ul]
Dàn bài tổng quát: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát
Mở bài: Giới thiệu nhân cách nhà nho chân chính được thể hiện vô cùng chân thực qua hai tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và bài ca ngắn đi trên bãi cát…
Thân bài:
- Giải thích
- Nhân cách là gì? Là tư cách và phẩm chất của con người
- Nhà nho là những người đọc sách thánh hiền am hiểu sâu rộng về lễ nghi thiên hạ được nhiều người kính nể….
- Bàn luận:
- Điểm giống nhau giữa tư tưởng của nhà nho Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ: Đều là những kẻ sĩ có tiếng trên đời song không vì thế mà khích lệ con người theo con đường quan lại. Vì các ông hiểu con đường này rất gập ghềnh chông gai. Đồng thời cũng vô cùng bất mãn trước xã hội thối nát.
- Điểm khác biệt:
- Cao Bá Quát thể hiện sự chán chường về con đường danh lợi này. Ông đề cao sự hạnh phúc con người không cần phải bó buộc trong khuôn khổ mà phải biết phá kén để khẳng định mình.
- Còn đối với Nguyễn Công Trứ thì ông quan niệm một điều đó chính là thể hiện cái tôi của mình bằng cách đề cao cái tôi hơn người. Thế nhưng không vì thế mà bị ghét bỏ thậm chí người đời còn nhớ đến ông với rất nhiều những ấn tượng tốt đẹp một vị quan lỗi lạc hết lòng vì dân. Thế nhưng ông đã đề cao cái tôi cá nhân mình và vượt qua bản ngã của chính mình.
Kết bài: Đánh giá chung về nhân cách nhà nho đồng thời khẳng định tên tuổi hai ông trong lòng người đọc…
Bài mẫu 1: Nghị luận văn học - Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát...
Bài làm
Nhắc đến nhà nho là nhắc đến niềm hoài cổ một thời vang bóng. Tuy ở xã hội hiện đại nó chỉ là hoài niệm thế nhưng có một giai đoạn rất dài nó trở thành niềm tự hào của rất nhiều thế hệ. Và không thể phủ nhận một điều rằng giá trị nhân cách ấy vẫn tỏa sáng vĩnh hằng trong mỗi người. Chúng ta càng thấm thía hơn khi đọc Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, nhân cách nhà nho chân chính được tái hiện vô cùng cụ thể và lay động.
Nhân cách ở đây đó chính là tư cách phẩm giá của mỗi con người. Nhà nho là những người có tri thức thời xưa, theo nho học đọc sách thánh hiền và được thiên hạ vô cùng kính nể. Họ nhìn chung là những người rất hiểu lễ giáo có ích cho đất nước và cho thiên hạ.
Đầu tiên ta có thể cảm nhận sự cộng hưởng và điểm chung giữa nhân cách nhà nho chân chính mà hai tác giả đề cập đến đó là quan điểm về con đường danh lợi. Song mỗi tác giả lại có một cách bộc lộc khác nhau. Nếu Cao Bá Quát thốt lên mà rằng :
“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Phải chăng bản thân vì quá lận đận vớ con đường danh lợi cho nên nhà thơ mới trở nên bi quan đến thế? Ông không còn khao khát mà chán nản khi nhắc đến nó. Bởi vì với ông con đường ấy quá gập ghềnh trắc trở. Ông là người có tài, kiến thức uyên thâm thế nhưng có lẽ sự mục rũa của thời đại đã hủy hoại đi một con người. Với cách sử dụng hình ảnh tượng trưng bãi cát dài vô cùng sâu sắc, người đi trên bãi cát cũng vô cùng tinh tế. Con đường danh lợi dài đằng đẵng khó đi và lắm vất vả, mệt mỏi… Giọt nước mắt không chỉ khóc thương cho bao năm dài miệt mài đèn sách mà quan trọng hơn nó còn xót thương cho một xã hội suy đồi và thối nát. Còn đối với Nguyễn Công Trứ ông lại cảm nhận theo một cách khác:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông HI Văn tài bộ đã vào lồng”
Nguyễn Công Trứ vô cùng thành công trong con đường công danh sự nghiệp thế nhưng ông cũng không vì thế mà đề cao con đường làm quan. Thậm chí Nguyễn Công Trứ cũng cảm thấy gò bó ở chốn quan trường. Điều đó được thể hiện rất rõ qua từ “vào lồng”. Có lẽ sống trong thời bất giờ chí làm trai mong muốn làm quan và việc học hành thi cử là để vinh quanh. Có thể với nhiều người có lẽ sẽ phê phán con đường ấy nhưng đặt trong hoàn cảnh bấy giờ thì họ chẳng còn ngã rẽ nào cho mình cả.
Thế nhưng đối với Cao Bá Quát ông đã thể hiện một phong cách riêng. Không cần cứ phải bon chen vất vả trên con đường ấy. Nếu không có nó thì sẽ có một lối rẽ khác. Đừng để danh lợi nhấn chìm chính bản thân bạn mà hãy dũng cảm vượt qua nó. Và có thể nói trong xã hội bấy giờ Cao Bá Quát là một con người vô cùng tiến bộ khi đã đề cao sự hạnh phúc. Còn đối với Nguyễn Công Trứ ông lại có cách thể hiện mình khác
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nen dạng tằn bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng ngất ngưởng. Ông luôn tạo nên những sự khác biệt không giống ai. Ông tự hào về những gì mà mình đã đạt được và cho nó là hơn người khác. Hơn thế nữa ông còn thể hiện một lối sống vô cùng phóng khoáng vượt lên trên tất cả những lời đồn thổi tầm thường sống không cần để ý đến xung quanh. Thế nhưng hình ảnh của ông sống mãi trong lòng người dân với hình ảnh vô cùng tốt đẹp và đáng khâm phục. Càng đáng quý hơn đó là đã dám đứng lên thể hiện cái tôi cá nhân của mình, bản ngã của chính mình.
Vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm bài ca ngắn đi trên bãi cát và bài ca ngất ngưởng thể hiện vô cùng thành công. Mỗi tác giả tuy có một cách thể hiện riêng song nó đều thể hiện được tâm hồn của kẻ sĩ và tạo thành dấu ấn độc đáo trong lòng độc giả mãi sau này.
Bài mẫu 2: Nghị luận văn học - Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát...
Bài làm
“Nhất sĩ, nhì nông”.
Trong xã hội phong kiến xưa, giai cấp được xếp hạng nhất, được trọng vọng nhất đó là “sĩ”, thường được gọi là các nhà nho. Vậy họ là ai? Họ làm việc gì và sinh sống ra làm sao? Chúng ta thử tìm hiểu nhân cách của nhà nho chân chính qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.
Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất của con người.
Thế nào là nhà nho? Nhà nho là những người tri thức thời xưa, theo Nho học. Nho giáo là một hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà nho, nho sĩ hay nho sinh. Nhà nho là người đã học sách thánh hiền, có học thức, biết lễ nghĩa, biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lí …
Nhân cách nhà nho chân chính thể hiện trước hết là biết “tu thân”. Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Khổng Tử nói: “Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta”. Mà học là để đỗ đạt trong thi cử. Sau đó “trị quốc”, ra làm quan để kinh bang tế thế, giúp nước giúp đời. Mà làm việc gì Nguyễn Công Trứ cũng làm đến nơi đến chốn. Trong bài ca ngất ngưởng, ông viết:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cầm cờ Đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Nguyễn Công Trứ liệt kê các vị trí, chức quan ông đã trải qua. Chúng đều là những vị trí cao nhất trong phạm vi của nó: Thủ khoa (đứng đầu khoa thi Hương, tức Giải nguyên), Tham tán (đứng đầu đội quan văn tham chiến: Tham tán quân vụ, Tham tán đại thần), Tổng đốc (đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh), Đại tướng (cầm đầu đội quân bình Trấn Tây), phủ doãn (đứng đầu ở kinh đô). Ngoài ra, ông còn có các hoạt động đa dạng trong lĩnh vực kinh tế: khai hoang (lập nên hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải), trị thủy (đê sông Hồng); đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn; kiến nghị về quỹ xã thương (dự trữ gạo), về việc cấp tiền dưỡng liêm để chống tham nhũng … Tất cả công việc đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện đầy tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao.
Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát cũng ảnh hưởng rất lớn của quan niệm “chí làm trai”. Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc sĩ phu đương thời, ông luôn tâm niệm và khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang cho đời, coi đso là lí tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả - “nợ tam bồng”. Ông vốn đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, bị Bộ Lễ kiếm cớ xếp xuống cuối bảng, xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ cử nhân. Năm Nhâm Thìn (1832), Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ. Sau đó, ông vào kinh dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng. Năm 1841, đời vua Thiệu Trị, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế (1847) làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ.
Bên cạnh nhân cách nhà nho chân chính, Nguyễn Công Trứ còn có tính cách của một nhà nho tài tử. Điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nho tài tử với người nhà nho hành đạo (nhập thế) và nhà nho ẩn dật (xuất thế) là ở chỗ nhà nho tài tử coi “tài” và “tình” chứ không phải đạo đức làm nên giá trị của con người. Nhà nho tài tử quan nhiệm “tài” theo nhiều cách: có thể đó là tài trị nước, cầm quân (kinh luân), có thể là tài học vấn. Nhưng dẫu đã có những tài năng ấy, vẫn nhất thiết phải có thêm tài văn chương, văn nghệ, “cầm kì thi họa” và những thứ nghệ thuật tài hoa, và tài năng đó phải gắn với “tình” nữa mới thành nhà nho tài tử:
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi,
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Ông cáo quan về quê, thoát khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng chính là thời điểm ông sáng tác bài thơ này. Nguyễn Công Trứ cho mọi người biết rằng ông đã hết làm quan, đã đực tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành động của ông lúc từ quan đã làm nổi bật được cái ngông trong con người ông khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về quê bằng một con bò vàng có đeo nhạc. Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò, được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Câu thơ “Kìa núi nọ phau phau mây trắng” tái hiện một phong cảnh tuyệt đẹp, thần tiên. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và sống chốn thần tiên ấy – núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của một nhà nho. Thế nhưng, ông đã làm một việc trái luật của nhà nho, hành xử không đúng với việc ông được học: những cô hầu gái đủng đỉnh đi theo ông tới chốn tu hành, lại còn ca hát, đánh đàn. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”.
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.
Đối với Nguyễn Công Trứ, “Được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Ông cứ thưởng thức “Đông phong”, gió xuân ấm áp phe phẩy bên tai, chẳng đáng quan tâm đến “được – mất”, “khen – chê”.
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật. không tiên, không vướng tục”.
Nguyễn Công Trứ dù đi chùa nhưng lại dẫn theo hần gái, lại còn gảy đàn và ca hát nơi tôn nghiêm. Thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ông không vướng vào thói hư hư tật xấu vì ông là một nhà nho tài tử. Cao hơn đó là ông “ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua Phật, qua tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, không giống bất kì ai.
Khác với Nguyễn Công Trứ, nhân cách của nhà nho chân chính Cao Bá Quát lại có những nét đặc biệt: đó là tầm nhìn xa rộng về cuộc đời, đó là tinh thần muốn đổi mới cuộc sống. Trong tác phẩm Bài ca ngắn đi trên cát, Cao Bá Quát đã thể hiện sự coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến xưa đã bị thối nát. Ông đã nhận ra tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo:
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”.
Bài can ngắn đi trên bãi cát là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ trên một con đường rất dài. Bức tranh mênh mong cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, đi mà như không đi. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác gia. Cái nhọc nhằn của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy khó nhọc mà xa vời. Đối với tri thức nho sĩ ngày xưa, con đường hoc – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, tha hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình củ thời thế. “Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được”. Vì sao chưa dừng được? bởi lẽ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian. Tất cả dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát.
“Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời,
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tình bao người?”
Con đường danh lợi cũng là một thứ đường đời thật gập gềnh, trắc trở. Cong danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lí. Học hành, đỗ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con đường lập thân, lập nghiệp ấy sao quá nỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của danh lợi. Số đông này hễ cứ ngửi thấy men thơm là lao đầu vào cho đến say khướt. Những suy nghĩ của Chu Thần đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Người đọc cũng có thể thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình “tỉnh” hay “say” để rồi lại trút tiếng thở dài:
“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít ?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng",
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,”
Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi: Tính sao đây?”. Khó khăn nối tiếp khó khăn, nhìn bốn bề, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Dường như, trong ông đang có sự đấu tranh quyết liệt: Một mặt, ông không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô đích. Mặt khác lại có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời.
“Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuẫn nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường “bãi cát” ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình, cái nhìn sáng suốt: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: “trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Quả thật vậy, câu hỏi tu từ “Anh đứng làm chi trên bãi cát” như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôn.
Tóm lại, Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ xứng danh là những con người có nhân cách nhà nho chân chính. Hai nhà thơ đã có những suy nghĩ rất độc đáo tuy sống trong một xã hội đã bị thấm nhuần tư tưởng hà khắc, lạc hậu của Nho giáo. Với Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ chứng tỏ là một nhà nho tài tử, thể hiện rõ sự khác biệt, “ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ông về một nhà nho chân chính, không ép mình bị trói buộc, Cao Bá Quát chứng tỏ là một nhà nho có quan niệm sống tiến bộ, có cái nhìn vượt thời đại, là ước muốn cái cách xã hội. Cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại dấu ấn qua tác phẩm của mình để khẳng định phong cách riêng của mỗi người. Vì thế có thể nói, cả hai nhà thơ đều đáng được đề cao như những nhà nho đã tạo nên một diện mạo mới cho Nho học Việt Nam.
Bài mẫu 3: Nghị luận văn học - Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát...
Bài làm