Bài viết tập làm văn số 2 - ngữ văn lớp 11 đề: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Tế Xương. Sau đây, TracNghiem.Vn gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo..
[toc:ul]
Dàn bài: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Mở bài: Giới thiệu về số phận người phụ nữ Việt Nam thời xưa. Nó trở thành đề tài không bao giờ cạn đối với thi sĩ. Trong đó ba tác phẩm miêu tả chân thực nhất phải kể đến là Bánh trôi nước, tự tình 2 của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Trần Tế Xương.
Thân bài:
- Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa:
- Đẹp không chỉ về bề ngoài mà còn bởi phẩm chất vô cùng cao quý: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”.
- Sự kiên trung nhân hậu nuôi 5 con và 1 chồng nhưng chưa một lời oán thán: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng”.
- Ẩn sâu trong một tâm hồn bao dung đó là sự cứng rắn và mạnh mẽ: “Xiên ngang mặt đấy rêu từng đám/ Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
- Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa chịu nhiều nỗi đau và không được làm chủ số phận của mình: “ Bảy nồi ba chìm với nước non/ Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”.
- Đau khổ vì cô quạnh không tìm được người đồng cảm với mình: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn/ Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Kết bài: Nhận xét về người phụ nữ thời xưa phẩm chất kiên trung, sắt son và giàu đức hi sinh.
Bài mẫu 1: Nghị luận văn học - Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều bài thơ nói lên than phận của người phụ nữ phong kiến xưa. Đó là những người phụ nữ chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến “Tam tòng, tứ đức” ( tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và công dung ngôn hạnh). Họ hầu như không có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Cảm thông với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ xưa, hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã thay họ nói lên tiếng lòng mình qua các bài thơ như: Tự tình, Bánh trôi nước, Thương vợ, …
Thời xưa, dưới chế độ phong kiến suy tàn, mục nát, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập vào vũng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, nam quyền độc đoán, một xã hội “trọng nam khinh nữ”, một chế độ đa thê, … Họ gặp nhiều đau khổ, lận đận, tình duyên trắc trở, chịu cuộc đời làm lẻ, số phận hẩm hiu, éo le.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn nói lên nỗi lòng của những người phụ nữ xưa. Đó là những người phụ nữ duyên dáng, xinh xắn nhưng luôn bị phân biệt đối xử thậm tệ, không có quyền lựa chọn hạnh phúc của đời mình và luôn khát khao hạnh phúc lứa đôi. Trước một xã hội bất công, cảnh ngộ người con gái giàu sức sống và hết sức tài hoa, nhưng trớ trêu cuộc đời thật bất hạnh, số phận lận đận gian truân:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nỗi ba chìm với nước non”
Không chỉ thế nỗi đau thân phận con được nhắc đến ở bài : “Tự tình II”:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non (…)
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Một tâm trạng buồn đau, oán hận, cô độc, trong màn đêm vắng lặng. Sự bẽ bàng, tủi hổ, dầu dãi cay đắng là nỗi đau của Hồ Xuân Hương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Duyên phận họ thật hẩm hiu, hạnh phúc ít ỏi ( tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc không trọn vẹn như trăng xế mà vẫn khuyết). Mang cho mình một thân phận lẻ mọn, tình yêu bị chia năm xẻ bảy chỉ còn tí con con:
“Mảnh tính san sẻ tí con con”.
Đối với Trần Tế Xương, ông đứng dưới khía cạnh một người đàn ông, cảm thông thương xót cho số phận của người phụ nữ bị đối xủ bất công, luôn chịu cơ cực gian truân nhưng không dám phản kháng. Họ luôn sống cam chịu, hi sinh cho chồng con:
“Lặn lội than cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Câu thơ mang chất liệu ca dao, các hình ảnh “lặn lội”, “eo sèo”, “khi quãng vắng”, “buổi đò đông” thể hiện sự tủi thân của người phụ nữ, trước sự đơn chiếc, chen chút làm ăn vật lôn với cuộc sống để mưu sinh, nuôi chồng con. Người phụ nữ xưa khi về nhà chồng phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, chấp nhận không kêu ca, oán than (“Một duyên hai nợ âu đành phận – Năm nắng mười mưa dám quản công”) mặc dù rất vất vả, khổ cực. Hình ảnh bà Tú chính là chân dung của một người phụ nữ không quản khó khăn vì chồng vì con, là một hình ảnh tiêu biểu cảu người phụ nữ Việt Nam.
Qua đó, đã làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ Việt Nam xưa. Đồng thời phê phán cái xã hội thối nát, giận người đời bạc bẽo vô tâm (“Sau giận vì duyên để mỏi mõm mòm” – Tự tình I của Hồ Xuân Hương), giận cuộc sống đã đưa những người phụ nữ vào chỗ lẻ loi cô dơn, hiu hút:
“Oán hận trông ra khắp mọi chòm” (Tự tình I – Hồ Xuân Hương)
Họ oán hận trước nỗi đau âm ỉ, dai dẳng đốt cháy tâm can và tê tái nhất.
Trong thơ Hồ Xuân Hương ta luôn bắt gặp những hình ảnh người phụ nữ biết vượt lên số phận, không để nỗi đau làm mình gục ngã:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn” (Tự tình II)
Quả thật, họ không bao giờ chịu khuất phục, luôn cựa quậy. Xuân Hương lại càng khẳng định”
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son” ( Bánh trôi nước)
Đúng là một phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ với tấm lòng thủy chung, son sắc, quyết gìn giữ không để hoàn cảnh xã hội lam hoen ố, là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh và hãnh diện về chính mình. Và trong tâm hồn người phụ nữ luôn khao khát được hòa hợp trong một tình yêu trọn vẹn, mãnh liệt:
“Chém cha cái kiếp lấy cồng chung”
Nó thể hiện một niềm khao khát chính đáng của người phụ nữ ở mọi thời đại.
Đến với “Thương vợ” của Tú Xương nhìn với góc độ đạo lý, bà Tú đang tuân theo bổn phận làm vợ nhưng nhìn ở góc độ tình cảm, ta thấy bà làm tất cả vì chồng con mà không than thở, ở bà hiện lên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, chịu thương, chịu khó và đức hi sinh âm thầm vì chồng con.
Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam xưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc trở …
Ngày nay thân phận người phụ nữ đã chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình. Bởi lẽ cái xã hội “Trọng nam khinh nữ” đã bị xóa bỏ mà thay vào đó là một xã hội “công bằng, bình đẳng, nam nữ bình quyền”. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam làm mất đi vẻ thuần phong mỹ tục vốn có của mình. Và vẫn giữ được phẩm chất, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đảm đang tháo vác.
Bài mẫu 2: Nghị luận văn học - Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Người phụ nữ xưa luôn luôn bị phân biệt đói xử bất công. Có lẽ chính bởi vậy mà có rất nhiều các áng văn thơ và cả trong văn học dân gian đều có những câu thơ than thân trách phận của người phụ nữ. Và ta có thể kể tên một số các bài thơ điển hình khi nói về thân phận của người phụ nữ như “Bánh trôi nước”. “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương và bài thơ đặc sắc đầy cảm động của Trần Tế Xương “Thương vợ”.
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ đã có rất nhiều sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Nhà thơ tài năng Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ xưa
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Một chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh trôi được luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với cặp mắt đa sầu và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hóa sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Rồi thì còn là “Nữ nhân ngoại tộc”. Rồi cả những luật Tam tòng hà khắc như đã cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Dường như những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy như đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn cả là chính điều đó đã biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Thân phận người phụ nữ lúc này chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn. Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của biết bao nhiêu người phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ đã hi sinh và cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Dường như đã hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng tại sao lại gọi là “cái hồng nhan’, phải hiểu “hồng nahn” có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Những điều tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng về một hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.
Một trong những bài thơ nói về thân phận của người phụ nữ đặc sắc nữa thì không thể bỏ qua bài “Thương vợ” của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là đây chính là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Việc phải tôn thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt. Bà Tú vợ của Tế Xương vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Bà Tứ phải quanh năm, ngày ngày lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà việc nuôi một ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông chồng một ít rượu ít trà, lại còn có ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều việc một lúc, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài cho số bà phải như vậy. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của đa phần phụ nữ thời xưa. Nhà thơ Trần Tế Xương không ngại ngàn khi từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Có thể nói bêên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Và cũng bởi vậy nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không! Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà như chẳng được nhờ vả, cậy dựa một chút gì xong nếu lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.
Thật dễ nhận thấy ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Thi sĩ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.
Bài mẫu 3: Nghị luận văn học - Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn dĩ chịu nhiều bất công.Là phận nhi nữ của ''truyền thống nho học'' , họ phải luôn gắn mình với những ''khuôn phép mẫu mực'', những đạo lý áp đặt trớ trêu mà lễ giáo phong kiến đã gây nên.Ở xã hội hiện đại ngày nay, những suy nghĩ ấy phần nào đã được đổi mới.Thế nhưng, thật xót xa khi ta ngoảnh đầu nhìn lại.Nhìn lại thân phận những người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội xưa, thật sự khiến ta phải giật mình thảng thốt.Ta có thể thấy, nền văn học đương thời cũng đã rất quan tâm đến mảng đề tài này, đó chính là tiếng lòng, tiếng thương cho số phận người phụ nữ - ''phường nữ nhi tầm thường'' trong xã hội lúc bấy giờ. Chúng ta có thể thấu hiểu hơn phần nào về số phận và phẩm chất của họ qua các bài thơ như: ''Bánh trôi nước'',''Tự tình II'' của bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương.Hay qua tiếng tự trào cười ra nước mắt của Trần Tế Xương trong tác phẩm ''Thương vợ''.Đó là những lời thơ hiện thực sâu sắc, đồng thời cũng mang những ý nghĩa nhân văn hết sức lớn lao.
Thân phận của những người phụ nữ luôn gắn với những bi kịch.''Nhất nam viết hữu , thập nữ viết vô'' - trong chế độ phong kiến xưa, người phụ nữ luôn luôn bị khinh rẻ và bị cho là ''vô dụng'' , không làm được gì.Thân phận của họ giống như một món hàng không hơn không kém.Họ không thể làm chủ được cuộc đời của mình,buộc phải ''nhắm mắt đưa chân''...
''Bảy nổi ba chìm với nước non''.
Thật bấp bênh. Là thân phụ nữ , họ phải chịu cảnh ''bảy nổi ba chìm'' , lênh đênh, nổi trôi vô định.Ấy chính là thân phận ''bèo dạt'' của họ thời bấy giờ.Cuộc đời họ như một cuộc đánh cược, sung sướng hay khổ đau, họ không thể tự quyết định.Tất cả đều tùy thuộc vào duyên trời, như câu ca dao: ''Thân em như hạt mưa rào.Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày''.Hạt mưa rào, ngắn ngủi và buông mình rơi tự do vào khoảng không trơ trọi...
Thời phong kiến cũng chính là nơi không dành cho sự chung thủy.Ở đó, trai ''năm thê bảy thiếp'' là lẽ thường tình.Ấy vậy nên tình yêu son sắt thủy chung của người phụ nữ sẽ không được xem trọng.Ở đó, người phụ nữ để đạt được tình yêu đã khó, để giữ chúng cho riêng mình xem ra lại càng khó hơn.Thân phận vốn dĩ như một món hàng rẻ mạt, người phụ nữ không có quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân.Vậy nên những đêm ''tự tình'' trong thanh vắng như Hồ Xuân Hương có lẽ không hề hiếm ở xã hội ngày ấy. Hạnh phúc đối với họ như một món quà xa xỉ không thể với tới, không thể chạm tới.''Muốn hạnh phúc'' có lẽ vẫn chưa đủ, họ ''khao khát'', họ ''thèm thuồng'', họ ''cầu xin'' sự hạnh phúc. Thế nhưng, có được không ?
''Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn''
Tất cả đã ''xế''.Mọi vật đã ''tà''.Đã qua rồi cái tuổi xuân của người phụ nữ.Trăng cũng đã đoạn cái thời khắc sung mãn nhất, tròn đầy nhất.Vậy tại sao, trăng lại ''khuyết chưa tròn'' ? Hỡi ôi, ''tròn'' sao được khi niềm khao khát hạnh phúc mãnh liệt kia chưa được trọn vẹn. ''Tròn'' sao được khi mảnh tâm hồn vẫn đang ''khuyết'' tình yêu thương ? Phận làm lẽ cho người khác, chỉ được vỏn vẹn một ''mảnh tình'' , ấy vậy lại còn phải ''san sẻ tí con con''. Còn lại bao nhiêu trong niềm chua chát ấy ? Nghĩ mà thương.Ngẫm mà xót !
Trong xã hội mục nát ấy, thân phận họ rẻ rúng, tình yêu thương họ cầu xin, trong gia đình họ lại như tay, tớ.Người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm ''Thương vợ'' của Trần Tế Xương là một hình ảnh tiêu biểu của số phận mà họ phải chịu thời bấy giờ.Người phụ nữ ấy tần tảo, lam lũ, chông chênh nơi ''mom sông'' , vất vả, cần cù dẫu ''năm nắng mười mưa'' vẫn ''dám quản công'' không nề hà, oán trách.''Thân cò'' yếu đuối ấy làm tất cả chỉ để ''nuôi đủ năm con với một chồng''. Có quá sức không ? Có kham nổi không ? Những người phụ nữ không có quyền trả lời những câu hỏi này.Họ xem đó như là nỗi đắng cay mà phận làm nhi nữ phải gánh, phải ''đành phận''. Ôi, bạc bẽo...
Tất cả những nỗi tủi nhục, bẽ bàng, vất vả kia chính là hệ quả mà xã hội phong kiến gây nên cho họ.Họ chính là nạn nhân của xã hội thối nát kia, chính nó đã giết đi quyền được làm người một cách đúng nghĩa, quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc của người phụ nữ.Càng thương thân phận của những người phụ nữ bao nhiêu, ta lại càng căm ghét cái xã hội vô nhân kia bấy nhiêu.
Thế nhưng trân trọng thay, qua lớp bùn tanh ấy, ta mới thấy được sự tinh khiết của những đóa sen thắm hương. Xã hội có thể vùi dập cuộc sống của họ nhưng muốn vùi dập được nhân phẩm của họ ư ? Không thể !
''Thân em vừa trắng lại vừa tròn'' , ''Trơ cái hồng nhan với nước non'' - phận ''hồng nhan'' ấy lận đận giữa dòng đời.Họ là phái đẹp, đẹp không chỉ về hình thức, họ còn đẹp ở cả tâm hồn.
''Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.''
Một lời khẳng định hết sức mạnh mẽ và chắn chắn. Trong xã hội, họ không bao giờ được thể hiện chính kiến của mình. Nhưng ở đây, ta thấy được sự vươn mình trỗi dậy như ''cỏ mọc trên đá''.Có lẽ chỉ khi nói về ''đức hạnh'' thì họ mới có thể vững vàng khẳng định như vậy. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì họ vẫn hết mực ''giữ tấm lòng son'' của mình.
Phẩm chất của người phụ nữ cũng thể hiện ở đức tính cần cù, chăm chỉ. Ở tấm lòng yêu thương chồng con, lo lắng cho gia đình, luôn luôn ''lặn lội'' mưu sinh chẳng ngại khó khăn, gian khổ. Ấy chính là những phẩm chất đáng quý, đáng ngợi ca và trân trọng.
Bài mẫu 4: Nghị luận văn học - Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc của văn học dân gian. Mảng đề tài đầy cảm hứng nhân văn này đã làm nên giá trị của nền văn học nói chung, gương mặt của các tác giả nói riêng. Tiêu biểu là Hồ Xuân Hương với “Tự tình” (II) và Tú Xương với “Thương vợ”.
Đúng như vậy, hai bài thơ với hai người phụ nữ đều khát khao một mái ấm gia đình. Xong cuộc đời lại lắm éo le trắc trở. Họ phải chịu đựng số phận hẩm hiu chế độ phong kiến mục nát. Cái chế độ mà khi nhắc tới ai ai cũng thấy bất bình tĩnh. Là phụ nữ thì sao chứ? Chẳng lẽ phụ nữ không phải con người trong xã hội? Hà cớ gì cứ phải bắt người phụ nữ làm những thứ họ không muốn từ những hủ tục lạc hậu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có quyền hành gì trong gia đình.
Trước hết, thơ của Hồ Xuân Hương là những lời than thân từ nỗi niềm riêng của một cá thể, chất chứa những vấn đề mang tầm phổ quát của thân phận người phụ nữ. Hay nói cách khác, bằng việc viết lên tiếng nói cá nhân. Hồ Xuân Hương làm sống lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa. “Tự tình” (II) nằm trong chùm thơ tự tình gồm ba bài viết bằng chữ Nôm. Đó là sự đau khổ vì không là chủ được thân phận mình. Trong khung cảnh lúc nửa đêm nổi bật chỉ là âm thanh “văng vẳng” của trống canh dồn, tiếng trống dồn dập, gấp gáp như hối thúc dội vào lòng người . Âm thanh văng vẳng không chỉ đơn thuần là sự cảm nhận bằng thính giác mà còn là cảm nhận của xúc giác về thời gian. “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”. Nhức nhối một tâm sự “trơ cái hồng nhan với nước non”. vẻ đẹp của người phụ nữ trong đêm trơ trọi, im ắng, gợi lên hình ảnh “hồng nhan” trở nên rẻ rúng, không có giá trị. Chắc hẳn ai trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương cũng cảm thấy quạnh hiu, đau nhói, buồn phiền. Hình ảnh “cái hồng nhan” với “nước non” càng cho thấy tâm trạng bẽ bàng tủi hổ của người phụ nữ. Cùng với nỗi buồn đè nặng lên con người nhỏ bé trong xã hội, đè lên thân phận của họ. Hồ Xuân Hương là con người rất mạnh mẽ, bà không cam chịu và muốn thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” là một phương tiện giải sầu, tuy không phải phương tiện duy nhất nhưng là tốt nhất vào lúc này. Tìm quên trong chén rượu, say rồi lại tỉnh, càng uống càng nhận thức mọi thứ rõ ràng hơn. Nó như một vòng luẩn quẩn khiến người phụ nữ ấy nhận ra sự cô đơn trĩu nặng hơn. Hướng tới vầng trăng mong tìm người bạn tri âm tri kỉ giữa đất trời nhưng “khuyết chưa tròn” lại còn “bóng xế”. Ngoại cảnh và con người g đây như một. Người phụ nữ tự hỏi đến bao giờ trăng mới tròn. đến bao giờ người mới có được tình yêu cho mình. Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn, tuổi xuân qua đi mà nhân duyên chưa tới. Người phụ nữ đang chơi vơi giữa một thế giới mênh mông, hoang vắng, muốn thoát khỏi nhưng bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi với chính mình.
Đến với Tú Xương là đến với những bài thơ tràn đầy tình yêu thương, cảm động viết về người vợ đang còn sống. Bài thơ “Thương vợ” thể hiện tâm thế và vị thế của một người mẹ, một người vợ đảm đang. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Vì chồng, thương con mà cam chịu cuộc sống khó khăn vất vả. Quanh năm suốt tháng, ngày này qua ngày khác không có lấy một ngày nghỉ, ngày mưa cũng như ngày nắng Bà Tú lam lũ buôn bán trên một mảnh đất nhô lên ở lòng sông. Cái nơi bấp bênh, gập ghềnh hiện lên hình ảnh tần tảo, tất bật ngược xuôi của bà Tú. “Quanh buôn bán ở mom sông”. Cái nền không gian, thời gian ấy, cuộc mưu sinh đầy khó khăn của bà Tú được ông Tú phác họa. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”. Hình ảnh “thân cò” là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông Tú đã dùng hình ảnh đó để nói về nỗi vất vả của bà Tú, đồng thời cũng gợi lên số kiếp, nỗi đau thân phận. Thân cò “lặn lội” trong một khoảng không gian “khi quãng vắng” vừa chỉ ra cái rợn ngợp của thời gian, vừa chỉ ra cái rợn ngợp của không gian. Hình ảnh bà Tú trở nên rõ nét hơn về sự vật lộn với cuộc sống. “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Cảnh bươn trải, chen chúc nhau của những người buôn bán rất khó khăn. “Buổi đò đông” đâu có giống như “khi quãng vắng”. Nó không chỉ có những lời cãi cọ, mè nheo, sự chen lấn xô đẩy mà còn có những bất trắc nguy hiểm. Biết là vậy nhưng bà Tú vẫn đi trên chuyến đò đó để dành miếng cơm manh áo cho chồng con. Dù vắng hay đông bà Tú cũng thui thủi một “thân cò”.
Tuy rằng số phận dằng buộc họ nhưng nhờ đó những phẩm chất cao quý của người phụ nữ được hiện diện.
Dù đau đớn thế nào, dù yếu ớt đến đâu thì trong sâu thẳm trái tim Hồ Xuân Hương cũng ánh lên ngọn lửa khao khát, hi vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên đấu tranh thay đổi cuộc sống của mình. “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám./Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”. Tâm trạng con người như muốn nói lên nỗi phẫn uất, ngang ngạnh, bướng bỉnh. Thiên nhiên trong mắt Hồ Xuân Hương tiềm ẩn một sức sống đang bị đè nén và đang vươn lên mạnh mẽ. “Rêu”, “đá” chỉ là những vật nhỏ bé, hèn mọn nhưng không hề yếu đuối bởi rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây. Điều đó càng chứng tỏ Hồ Xuân Hương muốn bứt phá rào cản để đi tìm hạnh phúc cho mình, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của nữ sĩ. Tuy lòng đầy canh cánh nhưng bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời. Yêu đời là thế, sức sống là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn “xuân đi xuân lại lại”. Cái vòng quẩn quanh đáng ghét của cuộc đời không thể tránh khỏi tiếng thở than chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” nhỏ vụn đã vỡ nhưng nay vẫn bị sẻ đi sẻ lại. Đối với trái tim thiết tha yêu thương kia, điều đó như một vết thương cứa sâu đau nhức nhối, khao khát một tình yêu trọn vẹn.
Dù có vất vả, đau xót, chán chườm đến thế nào thì người phụ nữ Việt Nam xưa vẫn là những con người có phẩm chất đẹp đẽ. Không chỉ vẻ bề ngoài mà còn cả bên trong. Đó là lòng yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng vì con. “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Nuôi đủ năm con” là việc hiển nhiên của một người mẹ nhưng còn chồng, cớ sao lại phải đếm “một chồng”? Là vì chồng, bà Tú cũng phải nuôi và đáp ứng đầy đủ nhu cầu cần thiết cho ông Tú. Bà Tú phải thắt lưng buộc bụng nuôi dưỡng năm đứa trẻ vất vả, vậy mà phải nuôi thêm một ông Tú trong nhà nữa thì gánh nặng đè lên đôi vai nhỏ của bà tăng gấp đôi. Sự khéo léo. đảm đang của bà thể hiện ở việc lựa chọn ông Tú mà sống, khéo léo chiều sự khó tính khó nết của ông để trong ấm ngoài êm. Bà Tú nhẫn nhục chịu đựng cái nợ đời như một sự tất yếu không thể không chấp nhận. “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Điều kì diệu là người mẹ, người vợ này không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Sự vất vả “năm nắng mười mưa” càng thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con mà bà đâu “dám quản công” một lời. Bà tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng. Phải chăng đó chính là đức hi sinh – vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam?
Hai người phụ nữ đẹp đều tìm thấy sức mạnh, ý chí để vượt lên hoàn cảnh. Nhưng trong cuộc thoát thân họ còn cô đơn quá, vì thế mà thất bại. Một người muốn bứt phá, thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt. Một người cam chịu , nhẫn nại để làm tròn bổn phận một người mẹ, một người vợ. Một người được đồng cảm, sẻ chia. Một người cô đơn một mình, buồn đau trước số phận hẩm hiu. Chỉ khi những người phụ nữ biết đoàn kết, biết đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng họ mới có thể thay đổi được số phận, làm chủ được cuộc đời mình.
Người phụ nữ thời xưa phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công, ngang trái và bị hạn chế bởi xã hội phong kiến. Còn người phụ nữ ngày nay được quyền bình đẳng, quyền học tập, quyền lựa chọn tình yêu và quyền làm chủ cuộc đời. Họ không còn bị đối xử như trước nữa. Tuy người phụ nữ ngày xưa có cuộc đời éo le nhưng hình ảnh sâu thẳm trong họ không bao giờ bị mất đi. Dù hoàn cảnh có ra sao thì tâm hồn cao đẹp của họ vẫn sáng lên. Và điều đó khiến ta luôn tự hào về người phụ nữ Việt Nam.
Bài mẫu 5: Nghị luận văn học - Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Hồ Xuân Hương sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng về đề tài phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đòi quyền sống tự do và thể hiện khát khao hạnh phúc. Trần Tế Xương cũng có một số bài thơ nói về những vất vả gian truân mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian, Hổ Xuân Hương gửi gắm những suy ngẫm sâu sắc của mình về thân phận nhỏ bé và phụ thuộc của người phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Chiếc bánh trôi nước làm bằng bột nếp trắng tinh, mịn màng, tròn trịa và xinh xắn khiến người ta liên tưởng tới vẻ đẹp hổn nhiên, đầy đặn của những cô gái đương xuân. Bánh luộc trong nồi nước sôi, mấy lần chìm xuống nổi lên mới chín. Bột bánh trắng trong nổi rõ màu nâu đỏ của nhân làm bằng đường thẻ. Với đôi mắt và trái tim đa cảm, Hồ Xuân Hương đã nhận ra đằng sau những chi tiết rất thực ấy là cả một nỗi niềm thương thân trách phận của người phụ nữ. Tạo hoá sinh ra họ là để duy trì và phát triển sự sống của nhân loại, đồng thời làm đẹp cho đời. Vai trò của họ là vô cùng quan trọng, nhưng quan niệm thiên vị đến mức lệch lạc trong xã hội phong kiến đã cố tình phủ nhận điều đó. Nào là: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nào là: Nữ nhân ngoại tộc.
Rồi luật Tam tòng cột chặt người phụ nữ vào thân phận bị phụ thuộc vĩnh viễn: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Những quan niệm khắt khe, cổ hủ ấy đã tước đoạt điều quý giá nhất là được tự do sống đúng với con người mình và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong suốt cuộc đời. Họ tồn tại chứ không phải là sống theo đúng nghĩa tích cực của từ đó. Chẳng khác gì những chiếc bánh trôi nước, rắn, nát, méo, tròn hoàn toàn do tay kẻ nặn.
Ở bài thơ Tự tình II, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch tâm trạng bức xúc cao độ của bản thân, đồng thời cũng là tâm trạng chung của bao phụ nữ cùng cảnh ngộ trong xã hội phong kiến:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Nói đến người phụ nữ là nói đến cái đẹp, tình yêu thương và đức hi sinh. Họ cống hiến hết cho cuộc đời mà không đòi hỏi quyền lợi vật chất nào ngoài sự trân trọng, cảm thông và chia sẻ. Nhưng những cái đó hầu như không được gia đình và xã hội quan tâm vì cho rằng thiên chức của phụ nữ là phục tùng vô điều kiện. Hiểu rõ điều bất công đó nên Hồ Xuân Hương đã viết nên những câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, chua chát như trên. Hồng nhan là cách gọi những phụ nữ đẹp, rộng hơn là để chỉ chung giới nữ. Nhưng gọi là cái hồng nhan có nghĩa là đã hạ nó xuống ngang hàng với những vật vô tri vô giác khác. Nỗi hờn tủi, bẽ bàng chất chứa trong câu thơ: Trơ cái hồng nhan với nước non in đậm dấu ấn phong cách diễn tả độc đáo của Xuân Hương.
Tâm sự trĩu nặng nỗi buồn thân phận và duyên phận của nữ sĩ không biết ngỏ cùng ai nên càng cuộn xoáy, day dứt trong lòng giữa đêm khuya thanh vắng. Nhưng dù bị phụ phàng hay quên lãng thì nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn không tuyệt vọng, vẫn khao khát sống mạnh mẽ, vẫn ước ao đến cháy lòng hạnh phúc tròn đầy, vẫn mong muốn được san sẻ và bù đắp những tình cảm chân thành nhất giữa người với người.
Bài Thương vợ của nhà thơ trào phúng nổi tiếng Trần Tế xương có thể coi là chân dung tương đối hoàn chỉnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày xưa, Nho giáo buộc phụ nữ phải có bổn phận thờ chồng, nuôi con. Thờ chồng đối với bà Tú bao hàm cả việc nuôi chồng, thế là bất công vì đúng ra, người đàn ông phải giữ vai trò trụ cột trong gia đình về mọi mặt.
Bà Tú vốn con nhà gia giáo, khá giả. Lúc còn ở với cha mẹ, bà không phải chịu cảnh vất vả nắng sương. Làm vợ ông Tú lận đận về đường khoa cử, lại không nghề không nghiệp nên bà đành chấp nhận cảnh sống long đong, khổ sở. Quanh năm lo tảo tần buôn bán nơi mom sông, bến chợ để Nuôi đủ năm con với một chồng. Mà nuôi ông chồng đặc biệt tài hoa như ông Tú thì không phải chỉ lo miếng cơm, manh áo bình thường mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi để có lúc ông vui bạn vui bè, chuẩn bị cho ông một hai bộ cánh tươm tất để nhỡ đi đâu ông khỏi tủi… Như vậy là bà Tú phải lo rất nhiều, phải làm rất nhiều mà không dám kể lể, thở than: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà âm thầm coi đó là định mệnh đã an bài. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là suy nghĩ, tâm trạng chung của phụ nữ thời xưa.
Nhà thơ Trần Tế Xương từng tự nhận mình là ông chồng vô tích sự, để vợ phải lặn lội thân cò… chẳng khác chi những thân cò thân vạc đáng thương trong ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú còn nỗi khổ tinh thần. Bà hết lòng vì chồng, vì con nhưng chồng con nào có biết cho chăng?! Thế nên mới có tiếng thở dài như một lời than não ruột: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!
Có lẽ ông Tú đã hoá thân vào vợ mình, để thấu hiểu và thông cảm với bà. Lấy chồng mà chẳng được nhờ vả, cậy dựa; lấy phải ông chồng hờ hững thì quả là có cũng như không mà thôi.
Ba bài thơ cùng một đề tài và cùng toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc rất đáng thương của người phự nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Nhà thơ Hồ Xuân Hương và nhà thơ Trần Tế Xương đã góp tiếng nói đáng kể vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi chính đáng của một nửa nhân loại – những người gánh vác trọng trách duy trì sự sống trên trái đất này.
Bài mẫu 6: Nghị luận văn học - Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xa xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II)...
Bài làm
Đề tài người phụ nữ luôn là một đề tài được nhiều nhà văn nhà thơ quan tâm và yêu thích. Ở họ có những phẩm chất vô cùng quý báu đó là sự khao khát yêu thương và hạnh phúc thế nhưng luôn bị những thế lực bạo tàn chèn ép và xô đẩy. Nó đã trở thành những nguồn cảm hứng dạt dào bất tận cho nhiều thi nhân. Trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như Bánh trôi nước, Tự tình II (Hồ Xuân Hương) và Thương vợ của Trần Tế Xương.
Những bài thơ trên hình ảnh người phụ nữ hiện lên không chỉ có vẻ đẹp về hình thức mà quan trọng nhất đó chính là những phẩm chất cao quý về tài năng nhân phẩm và khát vọng châ chính về quyền sống quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của họ nhà thơ Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ viết trong bài Bánh trôi nước như sau:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Bánh trôi được làm từ bột gạo nếp trắng tròn, mịn màng xinh xắn khiến người ta liên tưởng đên hình ảnh những người con gái đương độ xuân sắc. Cụm từ vừa trắng lại vừa tròn phần nào gợi tả thật khéo léo vẻ đẹp đó. Không chỉ về hình thức mà còn có phẩm chất vô cùng thanh tao:
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Tấm lòng son chính là tấm lòng son sắt vẹn nguyên, trung trinh dù có phải trải qua bao nhiêu phong ba bão táp bao nhiêu biến cố của cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ so sánh ngầm tấm lòng son vừa là nhân bánh trôi vừa là tâm hồn thanh tao của người phụ nữ. Tác giả Hồ Xuân Hương đã vô cùng khéo léo khi sử dụng đại từ em ở mở bài và kết bài để diễn tả sự mỏng manh yếu đuối nhưng cũng đầy khiêm tốn của mình.
Còn trong bài thơ Thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương phẩm chất cao quý và tình yêu thương của một người phụ nữ hết lòng vì chồng vì con
“Quanh năm buôn bán ở mom sống
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Câu thơ nhằm nói lên hết những nỗi đắng cay truân chuyên trong cuộc đời của bà Tú. Mom sông đã trọn vẹn nói lên sự chông chênh trong cuộc mưu sinh của bà. Bốn bề chênh vênh số phận của bà cũng trở nên đầy nhọc nhằn đã thế lại phải gánh nặng thêm năm con với một chồng. Nhà thơ khéo léo khi chia câu thơ thành hai vế “năm con” với “một chồng”. Mình ông Tú đã phải bằng năm miệng ăn của năm đứa con vì ông còn phải bút, sách, nghiên mực. Thế nhưng cho dù có bao nhiêu vất vả bao nhiêu sóng gió thì người phụ nữ tần tảo ấy vẫn vẹn nguyên chữ kiên trung không một lời oán thán cuộc đời hay số phận. Phẩm chất của bà cũng chính là vẻ đẹp đại diện cho người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.
Bên cạnh đó trong tác phẩm tự tình 2 nhà thơ Hồ Xuân Hương có những vần thờ ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ. Nó không chỉ hết lòng vì chồng vì con son sắt thủy chung mà còn vô cùng cứng rắn dám vượt qua hết tất cả những nỗi đau, nỗi vất vả.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đấm
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
Hình tượng thiên nhiên vô cùng dữ dội và có nét gì đó vô cùng nổi loạn cũng giống như sự bướng bỉnh không chịu khuất phục của người phụ nữ. Những số phận tưởng chừng bé nhỏ thấp hèn như hương đồng cỏ nội thế nhưng nó cũng tiềm ẩn trong đó một tâm hồn cứng rắn sắt đá. Phải chăng nhà thơ Hồ Xuân Hương còn chứa đựng trong đó một sự bất mãn với thời cuộc với xã hội với lề lối phong kiến đang trà đạp nên hạnh phúc con người.
Vất vả gian truân là thế thế nhưng dường như chưa bao giờ họ có quyền được than vãn chưa bao giờ có quyền được bộc lộ mình. Họ sống nép mình ẩn dật bởi cái xã hội phong kiến với định kiến nặng nề đó trói buộc họ. Họ hoàn toàn không có quyền làm chủ số phận của mình:
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Người phụ nữ thời xưa là vậy họ phải tuân thủ ngặt nghèo quy luật của lễ giáo phong kiến. Chuyện chung thân đại sự hay chuyện cuộc đời với họ hoàn toàn không nằm trong tay họ mà do người khác sắp đặt, Lấy chồng thì theo chồng, phải chịu cảnh năm thê bảy thiếp, cực khổ trăm bề.
Chả vì thế mà Hồ Xuân Hương đã đau xót mà rằng:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh đồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Không phải ngẫu nhiên mà ba tác phẩm này lại được đặt chung cho một chỗ. Vì nó đều nói lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa. Những con người đầy lòng yêu thương, đầy sự hi sinh nhưng chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn quyền sống và mưu cầu hạnh phúc. Số phận của họ trở nên vô cùng mong manh và bi đát.
Số phận người phụ nữ luôn là đề tài không bao giờ vơi cạn với thi sĩ. Nó giống như một kho tàng phong phú để thi nhân sáng tạo và khơi nguồn. Thế nhưng dù có trải qua bao nhiêu đau khổ thì những tâm hồn đó vẫn sáng đẹp và tỏa hương giữa cuộc đời.