Sưu tầm từ một bài báo các bạn đọc để biết thêm:
Nét đặc sắc của nghệ thuật đó, được thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, lựa chọn thời cơ tiến công chính xác và tổ chức hành quân thần tốc. Trên cơ sở nghiên cứu, nắm chắc tình hình các mặt, nhất là ý đồ xuất quân vào ngày mồng 06 tháng Giêng của địch, Nguyễn Huệ đã hạ quyết tâm chiến lược chủ động đại phá quân Thanh, giải phóng Thăng Long trước khi địch hành động. Đây cũng là thời điểm vào đúng dịp tết Nguyên Đán Kỷ Dậu 1789, khi mà quân địch đã và đang phạm một sai lầm nghiêm trọng - tự tước đi quyền chủ động tiến công sang thế bị động - phòng ngự tạm thời; tư tưởng lại hết sức chủ quan, mất cảnh giác, kỷ luật lỏng lẻo. Chính vì mải vui ngày Tết, say sưa với chiến thắng ban đầu, quân lính Mãn Thanh “bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn kỷ luật gì cả. Có kẻ đi ra khỏi thành đến 10 dặm để kiếm củi, có kẻ đi đến các chợ búa dân gian để buôn bán, hằng ngày tối đi sớm về xem như việc bình thường”, còn bọn quan tướng thì “ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”2. Như vậy, lựa chọn thời cơ chiến lược tiến công tiêu diệt quân Thanh của Nguyễn Huệ vào dịp này là quyết định táo bạo, chính xác, thể hiện tư duy quân sự và khả năng nhận định tình hình sắc sảo, tận dụng triệt để điều kiện, thời cơ có lợi, chín muồi nhất, khoét sâu vào điểm yếu, sơ hở của địch để tạo ra yếu tố bất ngờ trong tác chiến.
Một vấn đề quan trọng không kém tạo ra bất ngờ lớn cho quân Mãn Thanh, đó là việc tổ chức hành quân thần tốc của quân đội Tây Sơn. Theo sử chép, sau khi nắm được tình hình ở Bắc Hà, chỉ trong 04 ngày (từ ngày 22 đến ngày 26-12-1788), Nguyễn Huệ đã xuất quân cơ động từ Huế đến Nghệ An. Tại đây, quân Tây Sơn dừng lại 10 ngày để tuyển mộ binh sĩ, dò xét tình hình địch, soát xét lại phương lược lần cuối và chuẩn bị thêm lương thảo; đồng thời, thảo thư “giả hàng” gửi Tôn Sĩ Nghị để kích động thêm sự kiêu ngạo của hắn. Sau đó, Đại quân hành quân ngay ra Thanh Hóa tiếp tục bổ sung quân, tổ chức lễ “Thệ sư” kêu gọi tướng sĩ, binh lính đoàn kết một lòng, quyết tâm tiêu diệt giặc. Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào giải đáp thỏa đáng việc làm thế nào mà chỉ trong vòng 04 ngày đêm, Đại quân của Nguyễn Huệ đã vượt qua một chặng đường dài trên ba trăm cây số, từ Phú Xuân (Huế) ra Nghệ An. Do chỉ bàn về mục đích hành quân thần tốc để tạo bất ngờ cho hành động tác chiến nên chúng tôi không đi sâu lý giải vấn đề này, mà chỉ nghiêng về khả năng: đường hành quân cơ động lực lượng thần tốc của Nguyễn Huệ từ Phú Xuân ra Nghệ An là bằng cả đường bộ (Đường Thiên Lý) và đường biển. Đường bộ dành cho kỵ binh, đường thủy dành cho tượng binh, pháo binh và bộ binh (chủ yếu là khung chỉ huy, còn quân lính thì ra Nghệ An, Thanh Hóa tuyển mộ). Còn đoạn đường từ Nghệ An ra Thanh Hóa, Biện Sơn - Tam Điệp dài 180 km, 10 vạn bộ binh Tây Sơn “tiến quân đi gấp ngày đêm”, mất từ 07 đến 10 ngày vượt qua đoạn đường này là hợp lý. Tài nghệ kết hợp giữa hành quân thần tốc với xây dựng, mở rộng lực lượng của Nguyễn Huệ bảo đảm cho quân đội Tây Sơn vừa tạo ra thời cơ có lợi, vừa gây bất ngờ ngoài khả năng dự tính của địch cả về thời gian, không gian, lực lượng.
Hai là, tiến công với tốc độ cao. Chỉ có tiến công với tốc độ cao và đảm bảo tốc độ cao trong suốt quá trình tác chiến mới có thể phát huy tối đa yếu tố bất ngờ. Nhìn lại Chiến thắng Xuân Kỷ Dậu 1789 thấy rằng, yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo bất ngờ liên tiếp cho địch là tốc độ tiến công như vũ bão của quân Tây Sơn. Đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân, tức đêm giao thừa tết Nguyên Đán, đạo chính binh của Nguyễn Huệ bí mật vượt sông Gián Thủy, tập kích bất ngờ đồn Gián Khẩu, một đồn tiền tiêu của giặc do quân của Lê Chiêu Thống trấn giữ, tướng nhà Lê là Hoàng Phùng Tứ bỏ chạy. Nguyễn Huệ cho quân theo hướng sông Thanh Quyết đẩy nhanh tốc độ cơ động tiến công. Do có sự kết hợp chặt chẽ vừa đuổi bắt toán quân Thanh do thám, vừa tiến công tiêu diệt lần lượt các đồn giặc trên đường tiến quân, nên khi quân Tây Sơn bắt sống toàn bộ quân Thanh do thám ở Phú Xuyên (Hà Tây cũ) cũng là lúc các đồn tiền tiêu của giặc ở xa Thăng Long đều bị triệt hạ hoàn toàn. Vì vậy, các đồn giặc từ Hà Hồi trở lên Thăng Long không biết tin tức gì về cuộc tiến công của quân Tây Sơn. Nửa đêm mồng 03 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (tức ngày 28-01-1789), quân Tây Sơn đã vây chặt đồn Hà Hồi. Với khả năng tiến công tốc độ cao của quân Tây Sơn đã tạo nên yếu tố bất ngờ lớn, làm cho quân Thanh trong đồn Hà Hồi giật mình hoảng sợ, không dám chống cự, lũ lượt ra hàng. Tiếp đó, trước sự “xuất quỷ, nhập thần” của quân Tây Sơn “tướng ở trên trời xuống, quân ở dưới đất chui lên”3, giặc ở Ngọc Hồi hoảng loạn, vội vã cấp báo với chủ tướng Tôn Sĩ Nghị. Chúng đâu biết rằng, trên hướng Tây, cánh quân vu hồi do Đô đốc Long chỉ huy đã phối hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của nhân dân địa phương tiến hành “trận Rồng lửa” san bằng đồn Khương Thượng, tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống bẽ bàng, đành thắt cổ tự tử ở Loa Sơn. Từ đây, bằng khả năng cơ động nhanh, lực lượng kỳ binh Tây Sơn nhanh chóng đánh chiếm các đồn Yên Quyết, Nam Đồng; đồng thời, tổ chức thọc sâu đánh thẳng vào trung tâm đầu não của địch - cung Tây Long, trước sự ngỡ ngàng, hốt hoảng của chủ tướng giặc. Tôn Sĩ Nghị “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”4 cùng một toán kỵ binh vượt cầu phao sông Nhị Hà nhằm hướng Bắc tháo chạy.
Như vậy, với sách lược đánh nhanh, giải quyết nhanh, Quang Trung đã thực hiện tiến công mãnh liệt, tốc độ cao, làm cho quân địch liên tiếp bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và lâm vào tình trạng luôn bị động đối phó, tinh thần suy sụp, hoang mang tột độ, rụng rời liên miên, đồn trại tan rã từng mảng, dẫn đến thất bại hoàn toàn.
Ba là, sử dụng vũ khí cải tiến, tăng cường hỏa lực mạnh trong đánh địch. Kinh nghiệm chiến tranh cho thấy, để tạo bất ngờ cho đối phương, các bên tham chiến đều cố gắng giữ bí mật về ý định tác chiến, phương tiện chiến tranh, nhất là việc sử dụng các loại vũ khí mới đúng thời điểm, nhằm tăng hiệu suất chiến đấu, làm cho đối phương lúng túng đối phó. Trong chiến dịch giải phóng Thăng Long, vũ khí, trang bị của quân Tây Sơn không có gì là bí hiểm đối với quân Thanh, nhưng Nguyễn Huệ đã biết nhằm vào sở trường của quân đội mình để phát triển, cải tiến vũ khí, trang bị. Trong từng trận đánh, họ đều phát huy tối đa tính năng, tác dụng của các loại vũ khí để tiêu diệt địch, bảo vệ lực lượng chiến đấu.