Soạn văn 8 tập 2, soạn bài Tổng kết phần văn sgk ngữ văn 8 tập 2, để học tốt văn 8. Bài soạn cho ta nắm được hệ thống văn bản đã học trong chương trình. Những kiến thức trọng tâm, những câu hỏi trong bài học sẽ được hướng dẫn trả lời, soạn bài đầy đủ, chi tiết..

A- KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Lập bảng thống kê các văn bản văn học Việt Nam đã học từ bài 15 theo mẫu sau:

Văn bảnTác giảThể loạiGía trị nội dung chủ yếu
    

Trả lời:

Văn bảnTác giảThể loạiGía trị nội dung
Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tácPhan Bội ChâuThất ngôn bát cú đường luậtPhong thái ung dung, khí phách hiên ngang kiên cường của người chí sĩ yêu nước trước cảnh tù đày.
Đập đá ở Côn LônPhan Châu TrinhThất ngôn bát cú đường luậtNgợi ca người anh hùng với tư thế hiên ngang, tấm lòng trung hiếu với đất nước, với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Muốn làm thằng CuộiTản ĐàThất ngôn bát cú đường luậtThể hiện tâm trạng buồn chán, ngao ngán trước thực tại u tối.
Hai chữ nước nhàTrần Tuấn KhảiSong thất lục bátThể hiện tình yêu nước sâu sắc và nỗi buồn khi đất nước bị giặc xâm lấn
Nhớ rừngThế LữTự doMượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để diễn tả nỗi chán ghét thực tại tù túng, tầm thường và niềm khao khát tự do mãnh liệt.
Ông đồVũ Đình LiênNgũ ngônThể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của “ông đồ” qua đó toát lên niềm thương cảm chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi nhớ những giá trị xưa cũ.
Quê hươngTế HanhTự doBức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân. Qua đó ta thấy được tình cảm yêu quê hương của nhà thơ.
Khi con tu húTó HữuLục bátThể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do đến cháy bỏng của người chiến sĩ trong cảnh tù đày.
Tức cảnh Pác BóHồ Chí MinhThất ngôn tứ tuyệtPhong thái ung dung và tình yêu thiên nhiên vô bờ của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó.
Ngắm trăngHồ Chí MinhThất ngôn tứ tuyệtTình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả trong cảnh ngục tù cực khổ tối tăm.
Đi đườngHồ Chí MinhThất ngôn tứ tuyệtTừ việc đi đường núi gợi ra chân lí: vượt qua gian lao chồng chất sẽ đi tới thắng lợi vẻ vang.
Chiếu dời đôLí Công UẩnChiếuPhản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập
Hịch tướng sĩTrần Quốc TuấnHịchPhản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện qua lòng căm thù xâm lược.
Nước Đại Việt taNgyễn TrãiCáoMang ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập: nước ta là đất nước có nền văn hóa lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục tập quán riêng, phong tục riêng… kẻ xâm lược là phản nhân nghĩa, nhất định thất bại.
Bàn luận về phép họcNguyễn ThiếpTấuGiúp ta hiểu mục đích của việc học để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần làm hưng thịnh đất nước, chứ không phải để cầu danh lợi.
Thuế máuNguyễn Ái QuốcVăn xuôiVạch trần bản chất xảo quyệt của thực dân đã biến những người nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ cho lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn khốc.

2*Hãy chép lại những câu thơ em thích nhất cho là hay nhất trong 4 bài thơ kể trên, chọn mỗi bài từ 2 đến 4 câu.2*. Nêu lên sự khác biệt về hình thức nghệ thuật giữa các văn bản thơ trong bài 15, 16 và 18, 19? Vì sao các bài 18 và 19 được gọi là “Thơ Mới”? Chúng "mới" ở chỗ nào?

Sự khác nhau giữa các văn bản thơ trong bài 12, 16 và 17, 18 là:

  • Các bài văn tuần 15, 16 đều thuộc thể cổ điển : thất ngôn bát cú đường luật, song thất lục bát trong khi ở văn bản tuần 17, 18 các bài sử dụng các thể thơ mới như tự do, lục bát, ngũ ngôn,..
  • Các bài thơ tuần 15, 16 sử dụng cách ngắt nhịp 4/3, tuân thủ quy lật vần đối khác với tuần 17, 18 sử dụng các thể thơ Mới có các ngắt nhịp tự do, không quy luật về vần đối
  • Ngôn ngữ bài thơ tuần 15, 16 mang âm hưởng hào hùng, trang trọng trong khi thơ tuần 17, 18 ngôn ngữ bình dị đầy gợi cảm

=> Các bài 18, 19 được gọi là thơ Mới vì nó không còn cách viết theo lối viết cổ diển, các thể thơ cổ điển như trước nữa mà nó đã có sự đột phát:

  • Về thể thơ, từ các thể thơ cổ điểm phát triển thành các thể thơ tự do, ngũ ngôn, lục bát,... giải phóng thơ triệt để khỏi quy tắc các phép tu từ, thanh vận chặt chẽ truyền thống, thậm chí có sự xuất hiện và phát triển mạnh của thể loại thơ tự do, thơ không vần…
  • Về số lượng câu không bị giới hạn như những bài thơ truyền thống, ngôn ngữ hằng ngày được đưa vào thành ngôn ngữ nghệ thuật
  • Về nội dung đa diện, phức tạp, thường không bị gò ép.Thơ mới chịu ảnh hưởng của các trào lưu, khuynh hướng trong thơ ca phương Tây như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa ấn tượng…