Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) cảm thấy yêu thích, say mê nhát trong thiên tùy bút..

  • Đoạn văn tôi thích:

[...] Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuồn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyen qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì đó mỗi độ thu về. Chưa bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ [...]

  • Đoạn văn phân tích và cảm nhận:

Từ trên cao nhìn xuống sông Đà như một sinh thể xuất hiện trong bức tranh gấm vóc của non sông “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một ánh tóc trữ tình, dầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Sông Đà qua đoạn chợ Bờ đã không còn những thác đá, những hút nước, những trùng vây thạch trận mà là một con sông Đà trữ tình, mềm mại như dáng hình của người thiếu nữ. Với ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, sông Đà được ví như một áng tóc lại được đặt trong một câu văn rất giàu chất thơ khiến cho ta liên tưởng tới dáng hình của người con gái trẻ trung, duyên dáng với sức sống rạo rực, xuân thì trong mây trời, sương khói của Tây Bắc – một hình ảnh tinh tứ, quyến rũ như dáng chảy trôi mềm mại của con sông. Nhìn ngắm dòng sông Đà ở nhiều thời điểm, thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của con sông để rồi ông nhận ra dòng nước biến đổi theo mùa giống như người thiếu nữ thay áo. Đó là “mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc Bích chứ không xanh màu xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô”. Đó là sắc trong trẻo, tươi sáng, lấp lánh đáng quý của Đà giang và dường như ngay trong cách miêu tả về đặc sắc của màu nước ấy còn mang cá tính của cả một con sông, một sinh thể. Mùa thu nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Đó là một so sánh đầy lí thú. Sông Đà trong thời tiết mùa thu lại được hình dung như tâm trạng của con người bất mãn, bực bội; màu sắc lại được ví như da mặt của người bầm đi vì rượu bữa. Ấn tượng đọng lại trong tâm trí người đọc là hình ảnh của một dòng sông màu mỡ, màu đỏ của phù sa phì nhiêu, là sự giàu có của sức sống mà con sông đang trở nặng để vun đắp cho hai bờ, cho quê hương, cho đất nước này. Tác giả cũng khẳng định chưa bao giờ sông Đà có màu đen như thực dân Pháp đã đưa vào bản đồ của mình để thể hiện tình yêu say đắm với con sông xứ sở và cả sự tôn vinh quê hương, đất nước.