Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều Ngữ văn 9 tập 1.

 Tác giả Nguyễn Du

Thời đại

Thế kỉ XVIII – XIX là một trong những giai đoạn lịch sử đầy biến động với những sự kiện lớn làm thay đổi cả thời cuộc. Tiêu biểu trong đó là sự sụp đổ của chế độ phong kiến sau một thời kì khủng hoảng và suy thoái kéo dài. Cùng với đó, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi nhằm đòi quyền lợi, quyền nhân sinh mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã mang đến một luồng gió mới cho đời sống nhân dân. Đây là lúc chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá, nhưng cũng là lúc đồng tiền và sức mạnh của nó chi phối xã hội, làm thay đổi những luân thường đạo lý trước giờ.

Nguyễn Du sống qua cả ba triều đại: Lê – Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn nên đã chứng kiến tận mắt cảnh bãi bể hóa nương dâu, cảnh sống xa hoa đồi trụy của giai cấp thống trị cũng như cảnh bần cùng thống khổ của nhân dân lao động.

Cùng lúc đó, những yêu tố dân chủ xuất phát từ tầng lớp thị dân, những tư tưởng lớn của các cuộc khởi nghĩa nông dân, nhất là khởi nghĩa Tây Sơn cũng đã tác động lớn đến tâm hồn đa sầu, đa cảm của Nguyễn Du và đi vào trong các tác phẩm của ông.

Tiểu sử:

Nguyễn Du (1766 - 1820), tên tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên (清軒), quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc nổi tiếng về đường khoa hoạn, có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to trong triều đình. Thế nên, ở vùng Hồng Lĩnh (quê Nguyễn Du), nhân dân thường truyền tụng nhau câu ca dao:

“Bao giờ Ngàn Hống hết cay

Sông Rum hết nước họ này hết quan”

Ngoài ra, gia đình Nguyễn Du cũng có truyền thống lâu đời về văn học nghệ thuật. Ông nội là Nguyễn Quỳnh, một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh dịch. Cha là Nguyễn Nghiễm, một sử gia, một nhà thơ đồng thời là quan tể tướng của triều Lê. Mẹ ông là Trần Thị Tần (vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), một phụ nữ xinh đẹp, tài hoa và giỏi nghề hát xướng, xuất thân từ làng quan họ Bắc Ninh. Chính vì vậy, từ thuở bé, Nguyễn Du đã được đắm mình trong những làn điệu dân ca phía Bắc.         Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du, giữ một chức quan to ở phủ Chúa Trịnh. Ông giỏi thơ Nôm, ưa soạn nhạc và thạo cả nghệ thuật xây dựng trang trí. Vì có niềm đam mê đặc biệt với đàn ca hát xướng nên trong phú Nguyễn Khản lúc nào cũng có các nàng ca kĩ, đoàn hát ả đào trình diễn suốt ngày đêm. Chắc có lẽ bắt đầu từ đây, hình ảnh người kĩ nữ xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh đã trở thành chân dung khắc sâu sắc trong tâm trí Nguyễn Du.

Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện, những người cháu của Nguyễn Du cũng là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng lúc bấy giờ. Trong “An Nam ngũ tuyệt” được ca ngợi thời bấy giờ thì Nguyễn Du và Nguyễn Hành là hai cái tên góp mặt trong số đó.

Nguyễn Du là người thông minh, học rộng, hiểu nhiều nhưng cuộc đời lại gặp nhiều biến cố. Từ lúc sinh ra đến mười tuổi, ông sống sung túc với gia đình, đến mười một tuổi cha mất, tiếp đó hai năm sau mẹ mất, cuộc sống của ông bắt đầu cực khổ, trôi dạt khắp nơi: có lúc ở nhà anh là Nguyễn Khản, có khi lại nương tựa anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, có khi làm con nuôi cho quan họ Hà.

Sống và trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử và xã hội đầy biến thiên, chàng trai trẻ Nguyễn Du dẫu tài hoa vẫn bị cuốn vào sự “xoay vần của con tạo”. Khi làn sóng Tây Sơn bùng nổ, bởi tư tưởng trung quân nên ông lui về ở ẩn sau khi phản kháng không thành. Đến khi triều Nguyễn thành lập, Nguyễn Du ra làm quan nhưng lòng vẫn day dứt, trăn trở trước cuộc đời, trước “những điều trông thấy”.

Nguyễn Du mất vào ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (tức 16 tháng 9 năm Canh Thìn - 1820).

Sự nghiệp sáng tác

Nguyễn Du là người tài hoa uyên bác, thông hiểu cả đạo Nho, Phật, Đạo. Điều đó được thể hiện rõ qua các sáng tác văn, thơ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm của ông.

Suốt cả đời cầm bút, tuy để lại số lượng tác phẩm văn chương không nhiều, nhưng tác phẩm nào, Nguyễn Du cũng để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả.

Về chữ Hán, ông có ba tập thơ:

  • Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
  • Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam), gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
  • Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc), gồm 131 bài, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Về chữ Nôm, gồm có một số tác phẩm:

  • Đoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm)
  • Văn chiêu hồn (còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh)
  • Sinh tế Trường Lưu nhị nữ
  • Thác lời trai phường nón

Tác phẩm Truyện Kiều

Truyện Kiều (chữ Nôm: 傳翹), tên gốc là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), là truyện thơ kinh điển trong Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu, dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc.

Nội dung của Truyện Kiều được chia làm ba phần:

Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước

Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “Êm đềm chướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong ngày hội Đạp Thanh, gần nấm mồ Đạm Tiên – một hình ảnh báo hiệu định mệnh oan nghiệt sau này của nàng- Thuý Kiều gặp Kim Trọng. Trong buổi đi chơi xuân, Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng, một người thư sinh “phong tư tài mạo tót vời”. Kim Trọng thuê trọ cạnh nhà Thúy Kiều. Nhân dịp Thúy Kiều đi tìm chiếc đánh rơi mà Kim Trọng đã nhặt được, hai người có cơ hội làm quen. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp đẽ, sau đó hai người đã đính ước với nhau.

Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc

Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều bị mắc oan bởi thằng bán tơ. Nàng đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và Vương Quan, đồng thời nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó Thúy Kiều được Thúc Sinh chuộc ra nhưng vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư là người ghen tuông tàn nhẫn, Thúy Kiều bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà “học với Tú Bà đồng môn”. Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”, hai người trở thành tri âm tri kỷ, Từ Hải đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Thúy Kiều đau đớn trầm mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.

Phần thứ ba: Đoàn tụ

Kim Trọng sau nửa năm chịu tang chú đã trở lại tìm Kiều, biết Kiều bán mình cứu cha thì đau lòng khôn nguôi. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Dù kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng vẫn lưu luyến mối tình với Kiều, chàng cất công tìm kiếm, sau nhiều lần tìm và hỏi thăm khắp nơi thì cuối cùng mọi người gặp được Thúy Kiều, gia đình Kiều được đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên, Thúy Vân lên tiếng muốn Kim Kiều tái hợp, nhưng Kiều muốn “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”. Cuối cùng cả hai nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.