Cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình qua bài thơ “Nói với con”(Y Phương).
Quê hương là đề tài muôn thuở trong thơ ca bởi tình yêu ấy luôn thường trực trong trái tim mỗi người con. Nhà thơ Y Phương, một nhà thơ dân tộc Tày đã thể hiện tình yêu ấy một cách mộc mạc, sâu lắng khi có những cảm nhận về người đồng mình – những người con của quê hương miền núi qua bài bài thơ Nói với con.
Bài thơ Nói với con là một trong những bài thơ hay nhất của Y Phương, được sáng tác năm 1980. Mượn lời tâm sự với con, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” – của con người quê hương miền núi. Mở đầu bài thơ, người cha đã gợi nhắc cho con về cội nguồn trong mỗi người, là gia đình và quê hương – nơi chôn rau cắt rốn, nơi nuôi dưỡng ta nên người. Đề rồi từ đó, người cha đã nói với con về “người đồng mình” với sự giản dị và tài hoa trong cuộc sống lao động nơi miền sơn cước:
"Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát".
Cách gọi “người đồng mình” vừa gợi ra sự thân thiết, gần gũi vừa gợi ra nét độc đáo chỉ có ở quê hương. Trên mảnh đất thân thương, bức tranh lao động hiện ra với những con người cần mẫn, tươi vui trong tiếng hát. Đôi bàn tay tài hoa, khéo léo, thoăn thoắt trong điệu “đan”, “cài”, “ken”.. để làm ra những dụng cụ lao động, những mái nhà vững chãi. Những đôi bàn tay lao động chân chất đã góp phần dựng xây quê hương ấm no, hạnh phúc. Dù không có dòng thơ nào nhắc đến họ trong dáng hình nhưng vẻ đẹp của người lao động được gợi ra từ những công việc hàng ngày, đầy tài hoa mà giản dị, đời thường.
Người đồng mình còn có một lẽ sống cao đẹp, biết lo toan và có chí đi lên.
"Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn".
Câu nói gần gũi mà thân thương, người cha dạy con biết sẻ chia với người đồng mình qua tiếng hát “Người đồng mình thương lắm con ơi”. Thương cho những gian nan, vất vả họ phải trải qua. Tác giả sử dụng các tính từ “cao”, “xa” để thấy được những khó khăn, gian truân như ngày càng tăng lên, thử thách ý chí và nghị lực của con người. Nỗi buồn, những bộn bề thiếu thống càng nhiều thì ý chí của con người càng lớn, càng mạnh mẽ hơn để vượt qua tất cả. Người cha vừa tự hào về tinh thần, ý chí của người đồng mình, đồng thời cũng gửi gắm ước mong về đứa con sẽ rắn rỏi như truyền thống quê hương.
Không chỉ có vẻ đẹp trong con người và tính cách, người đồng mình còn ngời sán bởi tấm lòng son sắt nghĩa tình, dù gian khổ vẫn một lòng thủy chung, gắn bó với quê hương
“Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Tác giả đã liệt kê các hình ảnh gợi lên sự khó nhọc, vất vả của cuộc sống quê hương “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói”. Thành ngữ dân gian được tác giả sử dụng “Lên thác xuống ghềnh” đã cho thấy những lam lũ, cực nhọc mà người đồng mình đang phải trải qua. Điệp ngữ "sống ... không chê" được lặp lại hai lần, kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh "như sông như suối" có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Không chỉ vậy, người đồng mình còn hiện lên là những con người chân chất nhưng luôn mạnh mẽ, có nghị lực sống kiên cường với ý thức dựng xây quê hương ngày càng ấm no, giàu mạnh
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Vẫn những lời thơ mộc mạc và giản dị, người cha đã ca ngợi phẩm chất của con người quê hương mình. Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản giữa ngoại hình và tâm hồn. Những con người “thô sơ da thịt” diễn tả sự chất phác, bình dị, chân chất thôn quê nhưng không hề “nhỏ bé. Ẩn chứa sau dáng hình thô sơ ấy là một tâm hồn yêu quê hương, giàu lòng tự trọng, luôn phấn đấu vì sự phát triển của quê hương
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương" còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của "người đồng mình". Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc mình. Những câu thơ như toát lê niềm tự hào kiêu hãnh về quê hương bởi những bản sắc của quê hương vẫn được lưu giữ và truyền đời cho con cháu mai sau.
Bài thơ được viết với thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình tha thiết xen lẫn niềm tự hào về quê hương. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi với đời sống của người dân miền núi đã khiến bài thơ toát vẻ đẹp mộc mạc mà sâu sắc. Thông qua những lời kể của cha như muốn tiếp thêm sức mạnh cho đứa con về tình yêu quê hương, niềm tự hào về những “người đồng mình” và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Đó còn là niềm chứa chan hi vọng gửi gắm cho thế hệ mai sau về việc gìn giữ và phát huy những truyền thống dân tộc
Qua những lời thơ tâm tình của người cha dành cho con trong bài thơ, hình ảnh của quê hương, của “người đồng mình” hiện lên thật đáng quý biết bao. Đó là dòng suối mát lành nuôi dưỡng tâm hồn và nghị lực cho con. Bài thơ giup thêm yêu, thêm trân trọng những con người đã không quản ngại hi sinh vất vả để quê hương hương, đất nước ngày một giàu mạnh hơn.