Đề bài: Nêu ý kiến của anh/chị về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ. Theo anh/chị, đó là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ hay là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bài mẫu 3 - Ngữ văn 11.

Bài văn: Nêu ý kiến của anh/chị về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ - bài mẫu 3Hành trình của văn học là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim. Vì vậy, mỗi nhà văn khi đã cầm bút đều có thiên chức của mình. Như Thạch Lam quan niệm:"Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn." Ý thức được sâu sắc nhiệm vụ thiêng liêng đó, mỗi tác phẩm của Thạch Lam luôn nâng đỡ những yêu thương cao quý ở đời. "Hai đứa trẻ" là chút "Nắng trong vườn" vừa là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ vừa là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều có một chủ đề khác nhau. Chủ đề là vấn đề cơ bản, trung tâm được nêu lên trong tác phẩm. Nó thể hiện được chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt những vấn đề cuộc sống của người viết. Qua đó biểu hiện nhận thức, sự đánh giá và tư tưởng của tác giả đối với đời sống hiện thực. Trong truyện ngắn " Hai đứa trẻ", Thạch Lam không chỉ tái hiện số phận của những con người sống âm thầm, lay lắt, tàn lụi trong bóng tối của cuộc đời cũ nơi phố huyện nghèo mà còn gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là niềm tin và cuộc sống và lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn,  khát khao thoát khỏi cuộc sống tăm tối mù mịt hiện tại.  Chính vì thế, “Hai đứa trẻ" không chỉ là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ mà còn là câu chuyện về niềm khát kháo vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. 

Trước hết, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là câu chuyện về một ngày tàn. “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru.” “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa” gọi buổi chiều nơi phố huyện.Trong ánh mặt trời dần lụi tàn ở "hương tây đỏ rực như lửa cháy", cảnh vật cũng dần bước vào trạng thái tàn lụi: “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” và dãy tre làng “đen lại” “cắt hình rơ rệt trên nền trời”. Cả không gian ngập tràn âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng”, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tối. Bóng tối lan dần, nuốt chửng lấy cả phố huyện “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Trong bóng tối mênh mông ấy, chỉ có chút ánh sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí và những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Cái buồn của ngày tàn lặng lẽ len lỏi vào cả những con người cũng đang dần chìm trong bóng tối và thấm thía vào tâm hồn Liên: “Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không hiểu vì sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Khung cảnh ngày tàn được tái hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển, tinh tế. Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ, mộc mạc không cầu kỳ không kiểu cách nhưng lại gợi được cái hồn của cảnh vật và cái thần thái của thiên nhiên. Có thể nói, không gian phố huyện lúc chiều tàn hiện lên tuy buồn nhưng thơ mộng, mang dáng hình của một hồn quê Việt Nam quen thuộc, gần gũi vô cùng bình dị. Qua đó gửi gắm tình cảm gắn bó của Thạch Lam.

Trong không gian của ngày tàn còn có cả một câu chuyện về một phiên chợ tàn nơi xã hội thu nhỏ này. Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự nghèo nàn, xa xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía", chỉ còn lại "mùi âm ẩm bốc lên", hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi quen thuộc”. Cuộc sống tẻ nhạt, nghèo khổ từng nét hiện ra qua vẻ xác xơ, tiêu điều của phiên chợ tàn. 

Và trên phông nền thời gian, không gian tàn lụi của một ngày tàn và một phiên chợ tàn là những cuộc đời tàn tạ, những kiếp người đang âm thầm hoà mình chìm trong bóng tối.Chân dung những con người nghèo khổ lam lũ của phố huyện hiện dần ra. Đó là “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại” .  Chợ đã vãn từ lâu, chúng tìm được gì ở nơi đã tàn ấy? Cuộc sống nghèo khổ gieo rắc bất hạnh lên những kiếp người, cướp đi tuổi thơ của chúng và trả về gánh nặng mưu sinh.

Không một ai thoát khỏi cảnh tù túng nơi phố huyện nghèo. Mẹ con chị Tí, “ngày mò cua bắt tép” tối đến lại lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng. Dù không kiếm được bao nhiêu, nhưng ngày nào chị cũng dọn giống như đang chờ đợi một điều gì đó. Còn gia đình bác Xẩm, họ ngồi trên manh chiếu với cái thau sắt đế trước mặt, rồi không khách không tiền. Mệt mỏi, họ lăn ra đất và như đã lẫn vào trong đất. Bác Siêu với gánh hàng phở ế ẩm khốn khó. Hai chị em Liên với cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mở ra từ ngầy cả nhà rời Hà Nội về phố huyện này. Bà cụ Thi điên nghiện rượu, bà cười “khanh khách” rồi lảo đảo đi vào trong đêm tối gợi cho người đọc nỗi buồn thương về những kiếp người đang dần bị vùi lấp trong cái nghèo khố tối tăm và sự lãng quên của cuộc đời. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, khổ cực và tàn tạ.

Phố huyện nghèo kéo theo những kiếp người gần tàn vào bóng tối mênh mông mờ mịt. Ánh sáng âm ỉ trong bóng tối bao trùm, mong manh tới nỗi chỉ là “hột sáng” hắt ra từ ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn Hoa Kì vặn nhỏ của chị em Liên. Chút ánh sáng ấy không làm cho đêm tối trở nên sáng sủa hơn mà ngược lại chỉ càng làm thêm mịt mù u tối.Với nghệ thuật đối lập khi miêu tả ánh sáng và bóng tối, Thạch Lam đã khắc họa thành công nhịp sống tẻ nhạt, u buồn lay lắt của con người nơi phố huyện nghèo.Trong khi bóng tối nuốt chửng cả phố huyện thì ánh sáng xuất hiện là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng” thật bé nhỏ, chúng “mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó le lói cùng những phận người bấp bênh, trôi nổi. Nhịp sống ấy lặp đi lặp lại quẩn quanh, đơn điệu từ ngày này sang ngày khác.

“Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,

Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người”.

Nhưng “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.” (Thạch Lam). Dưới cái nhìn đầy yêu thương của Thạch Lam, " Hai đứa trẻ" còn là một câu chuyện về niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của những cuộc đời tàn tạ. Ngày tàn, phiên chợ cũng đã tàn nhưng không che lấp đi niềm tin và khao khát của những cuộc đời. Trong hoàn cảnh tàn tạ, con người vẫn ước mơ, vẫn hi vọng. Cuộc sống của họ vẫn tiếp diễn lặp lại dù họ biết mình không nhận được bao nhiêu. Nhưng dường như, họ vẫn luôn chờ đợi, chờ đợi điều gì đó chưa đến “Chừng ấy con người sống trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Và họ chờ, chờ chuyến tàu cuối ngày ngang qua phố huyện.

 

Trong cảnh chờ tàu, Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp tương phản rất tự nhiên có sức khơi gợi về cuộc sống đời thường: tẻ nhạt, đơn điệu nhưng lại chứa bên trong nhũng vận động đến xôn xao. Ánh sáng bừng lên trong bóng tối, cái đẹp ẩn trong cái bình thường, nỗi khao khát và ước mơ ẩn mình trong cam chịu, sự xao động nằm trong sự tĩnh lặng, cái tăm tối lại hiển hiện những kỉ niệm sáng tươi và hé mở một tương lai hi vọng dù cho còn mơ hồ xa xăm. Đó là nhìn của một nhà văn lãng mạn nhưng giàu lòng nhân hậu với con người và cuộc đời. Hai đứa trẻ chờ đợi tàu trong vui buồn phức tạp. Thạch Lam đã khéo léo tái hiện “những rung động cực điểm của những tâm hồn thơ dại” khi miêu tả sự thiết tha chờ tàu chạy qua tới mức An đã buồn ngủ nhíu cả mắt mà vẫn dặn chị: “Tàu đến chị gọi em dậy nhé!”.

 

Đoàn tàu ngang qua đem đến cho phố huyện không khí náo nhiệt, rạo rực bởi âm thanh, hình ảnh, màu sắc và ánh sáng của nó. Tiếng còi gióng lên hối hả, tiếng các toa tàu dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng người đi lại ồn ào huyên háo. Trên những toa tàu, đèn điện sáng trưng: “Đồng và kền lấp lánh ở những ô cửa kính sáng”. Chuyến tàu ở Hà Nội mang cho phố huyện cả một thế giới hoa lệ “như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Một thế giới tươi sáng khác hẳn với chút ánh sáng le lói nơi đây.Chuyến tàu mang theo nuối tiếc về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Nó thức dậy trong Liên một trời kỉ niệm đã qua để Liên sống với tuổi thơ trong chốc lát, sống lại một thời xa xôi nay chỉ còn trong hồi ức, thời mà thầy chưa mất việc, sống ở Hà Nội “chủ nhật được đi bờ hồ uống những cốc nước xanh đỏ”. Tàu đến rồi lại đi, lao về phía trước mở ra một chân trời tương lai khác mà không biết bao giờ con người mới đến được. Chị em Liên đứng nhìn theo con tàu mãi.

Qua khung cảnh đầy cảm động ấy, Thạch Lam với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc đã bày tỏ lòng xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Trái tim của một nhà văn chân chính - "nhà nhân đạo từ trong cốt tủy" đã nâng niu và trân trọng niềm tin của con người, dù cho niềm tin ấy vô cùng mong manh.

Trong thiên truyện ngắn của mình, Thạch Lam đã sử dụng thành công ngôn ngữ truyện giàu cảm xúc, giọng văn thủ thỉ điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức khơi gợi sâu vào cảm xúc người đọc kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Từ đó sáng tạo thành công một câu chuyện không có cốt truyện nhưng lại như một thứ thơ bằng văn xuôi ấn tượng. “Hai đứa trẻ” là bức tranh phác hoạ cảnh phố huyện nghèo trong một ngày tàn, qua một phiên chợ tàn và những cuộc đời tàn tạ, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của Liên. Bên cạnh niềm cảm thương chân thành đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm, Thạch Lam còn khẳng định và ngợi ca niềm khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của họ. Để rồi "Hai đứa trẻ" không những là tác phẩm tiêu biểu cho cây bút tài năng của "Tự lực văn đoàn" mà còn tiêu biểu cho tấm lòng nhân đạo, yêu thương và nâng đỡ con người của Thạch Lam.

Truyện ngắn " Hai đứa trẻ" với chủ đề nhân văn cao đẹp, mang theo thiên chức cao quý của người cầm bút giống như viên ngọc sáng được thời gian mài giũa. Cho đến tận hôm nay, nó vẫn âm thầm sống mãi trong lòng độc giả với tuyên ngôn văn học của một nhà văn chân chính: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam)