Tổng hợp bài viết số 3 ngữ văn 11 trong chương trình sgk. Hi vọng, sau khi tham khảo các bài văn mẫu, các em học sinh sẽ nắm rõ cách làm đối với dạng văn nghị luận văn học để từ đó giúp mình có được những bài văn hay nhất. Mời bạn đọc cùng tham khảo..

[toc:ul]

Đề 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”.

Bài làm

Tôi nhớ có nhà văn từng nói:” nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Sechxpia, nước Pháp – Molie và nước Đức – Gớt”. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Truyện Kiều. Đây là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam và nền văn học thế giới. Làm nên giá trị bất hủ này có nhiều nguyên nhân, song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp. Nhân vật được nhà thơ miêu tả trước hết trong truyện là Thúy Vân, Thúy Kiều.

Truyện Kiều là tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Truyện Kiều kể về một người con gái tài sắc nhưng có số phận bất hạnh là Vương Thúy Kiều. Tác phẩm truyện Kiều gồm có ba phần chính. Phần thứ nhất là đính ước và gặp gỡ. Trong phần đầu tiên, Nguyễn Du đã kể về Thúy Kiều, một người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm chướng rủ màn che, bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Ngay những dòng thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa lên bức chân dung chị em Thúy Kiều, Thúy Vân với những nét đẹp rất riêng.

Trước hết nhà thơ miêu tả nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều có những nét rất giống nhau.

“Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Nét giống nhau đầu tiên là hai chị em được so sánh với “hai ả tố nga”. Tố nga chỉ người con gái đẹp gợi cho người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của Hằng Nga trên cung trăng. Với bút pháp ẩn dụ ước lệ, nhà thơ còn nêu lên nét giống nhau ở vẻ bề ngoài và bên trong của hai chị em: “Mai cốt cát, thuyết tinh thần”. Nhắc đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng, tinh khôi. Cả mai và tuyết đều rất đẹp. Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng của hai chị em như là mai, là tuyết, đến mức độ “mười phân vẹn mười”. Như thế, nhan sắc của cả hai đều báo hiệu rằng: ẩn chứa trong đó là một tâm hồn đẹp đẽ, đằm thắm:

“Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Tuổi tuy đã “tới tuần cập kê”, đến độ tuổi lấy chồng nhưng hai nàng sống rất kỉ cương, lễ giáo. Cuộc sống “Êm đềm tướng rủ mà che” đã nói lên tính tình thùy mị, nết na, tư thế đài các. Còn thái độ “Tường đông ông bướm đi về mặc ai” để thể hiện thái độ trang trọn, lễ giáo của người đẹp. Đây cũng là cách ngợi ca kín đáo của nhà thơ về tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em...

=> Xem tất cả các bài viết số 3 đề 1

Đề 2: Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình

Bài làm

“Trên thế giới có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút. Thanh gươm thì đoạt thành chiếm đất, cây bút thì thu phục lòng người”. (Napoleon)

Thời kì văn học trung đại Việt Nam kết thúc với thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút đã chinh phục lòng người cho đến tận ngày hôm nay, đó là Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Hai nhà thơ tuy có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ lại có điểm khác nhau.

Trước hết chúng ta điểm qua hoàn cảnh của hai nhà thơ. Có thể thấy Nguyễn Khuyến (1835, tỉnh Hà Nam) và Tú Xương (1870, tỉnh Nam Định), tuy là hai nhà nho sống cùng thời, một già một trẻ nhưng cuộc đời của hai nhà nho ấy lại hoàn toàn khác nhau. Con đường công danh của Nguyễn Khuyến rất thành đạt (Tam Nguyên Yên Đổ). Ông từng làm quan mười năm, sau đso về sống ở nông thôn. Nguyễn Khuyến là một bậc chân nho, là đại diện khá tiêu biể cho lớp người được xã hội phong kiến đào tạo. Ông được vua Tự Đức ban cờ biển và hai chữ “Tam Nguyên”, tài năng lừng lẫy một thời. Đường công danh mở ra biết bao những vinh quang. Cuộc đời của ông sẽ chẳng có gì để ông có thể tự giễu mình với một giọng điệu chua chát đượm cảm giác ân hận nếu như tài năng ấy của ông thực sự cống hiến được cho dân, cho nước, cho đời. Ấy vậy mà bỗng nhiên Nguyễn Khuyến nhận ra thực chất cái xã hội đã đào tạo và tôn vinh mình. Và khi đạt đến đỉnh cao của vinh quang cũng là lúc ông thừa nhận sự bất lực của tầng lớp nho sĩ trước lịch sử. Nguyễn Khuyến là một trong rất ít những tri thức thời kì ấy sớm nhận ra sự bất lực của giai cấp mình, để rồi ông đã quyết định rời bỏ quan trường về quê để tránh xa sự nhố nhăng của xã hội, sự cám dỗ của đồng tiền...

=> Xem tất cả các bài viết số 3 đề 2

Đề 3: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

Bài làm

Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.

Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ

Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.

Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:

“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”

Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu

Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”...

=> Xem tất cả các bài viết số 3 đề 3

Đề 4: Những cảm nhận sâu sắc của anh chị qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.

Bài làm

Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói về cuộc đời và thơ của Nguyễn Đình Chiểu như sau: " Trên trời có vì sao có ánh khác thường". Điều khiến mỗi chúng ta ấn tượng sâu nhất về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu có phải là một tấm gương sáng ngời về nghị lực và đạo đức. Ông chính là một người đã chiến đấu hết mình, sống thẳng thắn, chính trực với một nghị lực sống phi thường. Một người luôn đứng về chân lí, lẽ phải, luôn đấu tranh cho nhân dân thật đáng để ngưỡng mộ.

Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888, tên thường gọi là Đồ Chiểu. Ông là người học rộng tài cao, từng đỗ tú tài. Đến năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỉ Dậu 1849 nhưng trớ trêu thay mẹ ông mất. Vì quá thương nhớ mẹ mà ông đã khóc đến mù lòa hai mắt. Sau đó Pháp câm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây ông vẫn tiếp tục dạy học và làm thuốc. Ông nhanh chóng có liên hệ mật thiết với những những nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là và lãnh binh Trương Định. Dù bị mù cả hai mắt nhưng ông vẫn tích cực dùng văn chương để kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân.

Ông cũng là một con người trọng đạo lý, sống nặng tình. Ông sống luôn giữ gìn và đề cao bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng. Vì cứu người cụ Đồ Chiểu có thể sẵn sàng hi sinh, không màng danh lợi. Ta thấy ở ông một ý chí kiên định, không bao giờ chịu khuât phục trước cường quyền. Nguyễn Đình Chiểu chính là một tấm gương sáng về nghị lực. Ông dùng văn chương để đánh giặc, ngôn từ là vũ khí sắc bén.

Cái tên Cụ Đồ Chiểu đã cho thấy rằng ông chính là người đã có công đóng góp rất lớn trong giáo dục. Ông được biết đến với hình ảnh một người thầy giáo trọn đời chăm lo cho những môn sinh của mình. Trong những bài học đạo lí của ông, ta thấy được một nhân cách vĩ đại của một kẻ sĩ. Ông là một trong những người đã dành tâm huyết để cống hiến cho lĩnh vực y học. Nguyễn Đình Chiểu là một thầy thuốc giỏi, ông thông thạo sâu sắc y học phương Đông và Việt Nam và là một bầu trời y đức. Cuốn Ngư Tiều y là một trong những tác phẩm cuối đời của ông không chỉ dạy đạo làm thầy thuốc cứu người mà còn chỉ cả đạo làm người....

=> Xem tất cả các bài viết số 3 đề 4