Nội dung chính bài Vịnh khoa thi hương.
[toc:ul]
A. Ngắn gọn những nội dung chính
1. Giới thiệu chung
- Tác giả: Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó gò vào khuôn sáo trường quy.
- Tác phẩm: “Vịnh khoa thi Hương” còn có tên gọi khác “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”, được sáng tác năm 1897.
2. Phân tích văn bản
a. Hai câu đầu: Sự xáo trộn của trường thi
- Thông báo về sự thay đổi trong tổ chức thi cử:
- Bề ngoài thì bình thường: Một kì thi theo đúng thời gian thông lệ: Ba năm một lần.
- Thực chất không bình thường: Trường Nam thi lẫn trường Hà. Người tổ chức không phải là triều đình mà là “nhà nước”. Cách thức tổ chức bất thường.
- Cách dùng từ: "Lẫn" ngụ ý mỉa mai, khẳng định một sự thay đổi trong chế độ thực dân cũ, dự báo một sự ô hợp, nhốn nháo trong việc thi cử.
- Thực dân Pháp đã lập ra một chế độ thi cử khác.
b. Bốn câu tiếp: cảnh trường thi nhốn nháo ô hợp
- "Lôi thôi", "vai đeo lọ": Hình ảnh có tính khôi hài, luộm thuộm, bệ rạc. Nghệ thuật đảo ngữ: sĩ tử thì nhếch nhác lôi thôi - vừa gây ấn tượng về hình thức vừa gây ấn tượng khái quát hình ảnh thi cử của các sĩ tử khoa thi Đinh Dậu.
- Hình ảnh quan trường: ra oai, nạt nộ, nhưng giả dối. Nghệ thuật đảo: ậm ẹo quan trường - Cảnh quan trường nhốn nháo, thiếu vẻ trang nghiêm, một kì thi không nghiêm túc, không hiệu quả.
- Hình ảnh: Cờ rợp trời - Tổ chức linh đình.
- Hình ảnh quan sứ và mụ đầm: Phô trương, hình thức, không đúng lễ nghi của một kì thi.
- Hình ảnh: Lọng >< váy; trời >< đất; quan sứ >< mụ đầm: Đả kích, hạ nhục bọn quan lại, bọn thực dân Pháp.
- Tất cả báo hiệu một sự sa sút về chất lượng thi cử - bản chất của xã hội thực dân phong kiến.
c. Hai câu cuối: Thức tỉnh các kẻ sĩ và nỗi xót xa của nhà thơ trước cảnh nước mất
- Câu hỏi tu từ mang ý nghĩa thức tỉnh các kẻ sĩ và cũng là câu hỏi với chính mình về thân phân kẻ sĩ thời mất nước.
- Bộc lộ tâm trạng nhà thơ: Buồn chán trước cảnh thi cử và hiện thực nước nhà.
- Lòng yêu nước thầm kí, sâu sắc của Tế Xương.
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
1. Phân tích chi tiết bài thơ
a. Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường nam thi lẫn với trường Hà."
- Theo lệ thường, dưới thời phong kiến, cứ ba năm có một khoa thi Hương. Điều đó không có gì đặc biệt, song câu thơ không chỉ là lời giới thiệu. Giọng điệu hài hước thể hiện khá rõ ngay trong hai câu thơ đầu. Câu thơ như một thông báo. Khoa thi này do nhà nước tổ chức, cứ ba năm một lần thi Hương để chọn nhân tài. Đó là thông lệ. Song nó báo hiệu một cái gì khác trước: "Trường Nam thi lẫn trường Hà". Đây là cách thức tổ chức bất thường.
- Cách dùng từ "Lẫn" thể hiện rõ thái độ mỉa mai, khẳng định một sự thay đổi trong chế độ thực dân cũ, dự báo một sự ô hợp, nhốn nháo trong việc thi cử. Thực dân Pháp đã lập ra một chế độ thi cử khác. Nhìn bên ngoài như bình thường mà thực chất lại không bình thường.
b. Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa."
- Câu thơ miêu tả thật hài hước cảnh trường thi. Sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan trường không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
- Cách đảo trật tự cú pháp “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh lối thôi, đeo lọ cùng với những từ chỉ âm thanh ậm oẹ, thét loa làm cho quang cảnh thi trở nên nhốn nháo, ô hợp mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức.
c. Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
- Sự có mặt của vợ chồng quan sứ đáng lẽ sẽ làm cho quang cảnh trường thi trang nghiêm hơn. Song trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tâng thêm sự chua chát. Quyết định số phận của của các sĩ tử là một kẻ ngoại bang không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm. “Váy lê quét đất” đối với “Lọng cắm rợp trời” (còn làm nhục quốc thể) chao ôi thật chua chát. So với bài thơ khác “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt/ Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng” thì sự nhục nhã ấy chỉ là một.
- Nghệ thuật đối càng làm tăng thái độ mỉa mai, châm biếm hạ nhục bọn quan lại, thực dân.
d. Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cản nước nhà.”
- Hai câu kết là một câu hỏi. Nhà thơ hỏi “Nhân tài đất Bắc” tức là hỏi tầng lớp trí thức. Đó là những sĩ tử đang chăm chăm chạy theo danh vọng. Ông hỏi mà như thức tỉnh họ về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù ngoại bang nếu vẫn có mặt ở lễ xướng danh này thì dẫu có đậu tiến sĩ ra làm quan cũng là thân phận tay sai mà thôi. Đường công danh còn có ý nghĩa gì? Hai tiếng “ngoảnh cổ” bộc lộ thái độ vừa mạnh mẽ vừa thể hiện một nỗi tủi nhục. Nhà thơ hỏi người cũng chính là hỏi mình. Giọng thơ dù đay nghiến mà vẫn có cái gì xa xót đến rưng rưng.
- Cảnh trường thi nhốn nháo, nhố nhăng làm bật lên tiếng cười chua chát về tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Đây cũng là mâu thuẫn nội tại lúc bấy giờ không thể điều hoà được giữa kẻ sĩ muốn thi thố tài năng với đời với thực tế phi nghĩa của khoa cử học vấn.
2. Tổng kết:
- Nội dung: Tác giả Tú Xương đã vẽ lên cảnh nhốn nháo, ô hợp của kì thi trong xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu
- Nghệ thuật: Nghệ thuật đối, đảo ngữ; ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm
- Ý nghĩa: Sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học. Đồng thời lên án một xã hội thối nát.