Ngữ văn 9 - bài viết số 6 đề 2: Truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp? Sau đây, tracnghiem.vn gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo..

[toc:ul]

Dàn ý chung

1. Mở bài: 

  • Giới thiệu đoạn trích
  • Giới thiệu hoàn cảnh của nhân vật Thúy Kiều: bán mình để chuộc cha và em trai.

2. Thân bài:

  • Hình ảnh của Thúy Kiều trước khi gia đình gặp biến cố
    • Sinh ra trong gia đình thượng lưu, lương thiện, vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ.
    • Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh...
    • Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết định bán mình chuộc cha...
  • Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều trong cuộc trao đổi, mua bán:
    • Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều:
      • Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán
      • Ý thức được nhân phẩm
    • Nỗi đau đớn, tái tê:
      • Buồn rầu, tủi hổ, ngại ngùng
      • Ê chề trong cảm giác thẹn với lòng
      • Đau đớn khi tình duyên tan vỡ...
  • Tấm lòng của tác giả:
    • Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.
    • Tác giả có cái nhìn cảm thông, thương cảm với số kiếp "hồng nhan bạc mệnh" của Thúy Kiều.

3. Kết bài: 

  • Nội dung: Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào sô phận ai oán, bi thương của Kiều.
  • Nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ, dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả.

Bài mẫu 1: Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.

Bài làm

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời nó cũng là tiếng lòng thổn thức, xót thương cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đó không chỉ là số phận nàng Kiều mà còn là hình ảnh người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội đương thời rối ren. Trong đó đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều chính là một bức tranh lột tả trần trụi về sự bất công trong chế độ bấy giờ.

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều nằm ở phần thứ hai thuộc “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi gia đình họ Vương bị thằng bán tơ vu oán, gia đình rơi vào cảnh rối ren đau thương. Của cải bị cướp đoạt cha và em trai đều bị bắt bớ tra khảo dã man. Cái giá mà chúng đưa ra để kết thúc việc này là “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Trong phút bĩ cực chẳng còn cách nào Kiều đành phải nhắm mắt xuôi tay, gạt đi mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.

Đoạn trích này chính là một nốt trầm buồn khởi đầu cho cuộc đời đầy bất hạnh truân chuyên của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc.

Sau khi nghe tin Thúy Kiều bán mình chuộc cha đã gây xôn xao một vùng rộng lớn. Vì không ai là không nghe đến Thúy Kiều một người con gái tài sắc vẹn toàn. Chính vì thế Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối đến hỏi cưới nàng về làm lẽ.

Thế nhưng thay vì miêu tả cặn kẽ con người con gã họ Mã, Nguyễn Du chỉ đi vào đẵ tả chi tiết tiêu biểu từ thần thái đến trang phục cử chỉ của nhân vật. Vì thế không ai biết rõ tung tích của Mã Giám Sinh chỉ biết gã họ Mã là người “viễn khách” đến. Câu trả lời cộc lốc không đầu không đuôi phần nào đã khắc họa hết bản chất của y:

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng: “huyện Lâm Thanh cũng gần”

Bằng ấy câu hỏi nhưng cũng chỉ biết hắn họ Mã, còn tên Giám Sinh là một cái tên chỉ chung những sinh viên trường Quốc tử giám. Thế là y không nói tên, còn quê quán cũng chẳng rõ ràng cụ thể. Cách nói năng của y thể hiện hắn là một kẻ thô tục, không hề có khí chất phi phàm nho nhã của những người có học.

Đi sâu vào miêu tả ngoại hình của y, Nguyễn Du đã có những câu thơ sau:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”

Bộ mặt nhẵn nhụi, bảnh bao phần nào thể hiện sự giả dối trong con người của hắn. Từ láy “nhẵn nhịu”, “bảnh bao” mang đến cho con người cảm giác trơ trẽn, phẳng phiu. Những từ ngữ miêu tả bề ngoại cùng với tuổi “trạc ngoại tứ tuần” càng khiến người đọc cảm thấy gờn gợn. Cái tuổi sắp lên lão mà còn tỉa tót ngoại hình tô vẽ cho mình thêm trẻ trung đôi mươi càng bộc lộc bản chất thực sự của gã buôn người họ Mã.

Không chỉ dừng lại ở miêu tả ngoại hình mà cử chỉ của thầy tớ họ Mã cũng được Nguyễn Du nhắc đến “trước thầy sau tớ lao xao”.

Đó là một lũ ô hợp nhốn nháo không có trật tự, sỗ sàng vô học. Đặc biệt hành động “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng nhấn mạnh sự thô thiển của một kẻ vô học đội lốt học trò trường Quốc tử giám. Ghế trên vốn là vị trí trang trọng dành cho bậc cao niên thế nhưng hắn là kẻ đi hỏi vợ phận làm khách lại làm vậy thật trướng mắt và vô lễ.

Càng về sau cuộc mua bán thì Mã Giám Sinh càng thể hiện mình là một con buôn lọc lõi và từng trải:

“ Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”.

Nhưng trái với những lời lẽ hoa mỹ đó hành động của y càng thể hiện nhân cách thấp hèn cũng ngầm dự báo cho một cuộc đời đầy nước mắt của Kiều. Một loạt các cụm từ như “cò kè bớt một thêm hai”, “ngã giá”…. Chứng tỏ hắn là một con buôn lọc lõi, sành sỏi. Một kẻ buôn người đội lốt học trò trường Quốc tử giám nhưng ẩn sâu bên trong là một bản chất xấu xa, đê tiện và giả dối.

Còn Kiều một “món hàng” được mang ra trao đổi suốt cuộc trò chuyện đó nàng chỉ biết im lặng. Hình như nỗi đau đớn tủi hổ, xót xa đã xâm chiếm toàn bộ tâm trí nàng. Từ một người con gái “kín cổng cao tường” nay biến thành món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của tú bà và Mã Giám Sinh thì sao tránh khỏi đau thương cho được.

Nguyễn Du đã dùng một loạt các hình ảnh ẩn dụ tượng trưng để miêu tả tâm trạng lúc bấy giờ của Kiều như “ngại ngùng dợn gió e sương”, “nét buồn như trúc, điệu gầy như mai”…. Phần nào chúng ta cũng cảm thông trước sự đau đớn của một người con gái tài hoa mệnh bạc.

Có thể nói đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một trong những đoạn trích lấy đi nhiều nước mắt cũng như trăn trở của người đọc. Bằng bút pháp miêu tả chân thực, lối nói ẩn dụ tương trưng Nguyễn Du đã phần nào hé lộ một cuộc đời đầy biến động sóng gió của Kiều. Cũng là tiếng lòng đồng cảm xót thương cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội đương thời đầy tai biến và đau thương.

Bài mẫu 2: Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.

Bài làm

Tác phẩm Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ gắn liền với tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện tập trung xoay quanh cuộc đời sóng gió của Kiều, cũng là cuộc đời của bao người phụ nữ trong thời phong kiến. Họ luôn phải chịu nhiều cay đắng, tủi nhục từ bọn người bất nhân, vô lương tâm dùng đồng tiền của mình chà đạp lên quyền sống của họ. Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều là một trường hợp tiêu biểu cho chế độ thời ấy.

Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (gia biến và lưu lạc). Sau khi bị thằng bán tơ vu oan , gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.

Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.

Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng  một người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.

Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:

“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mập mờ, không rõ ràng. “Giám Sinh”  là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn “huyện Lâm Thanh” rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao?.  Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng “giám sinh”, hạng người có học.

Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.

Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.

Chân dung của y còn rõ nét qua hành động. Chỉ một câu:

“Trước thầy sau tớ lao xao”

Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ người ô hợp, nhốn nháo, lộn xộn, lưu manh lấc cấc.

Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết:

“Ghế trên ngòi tót sỗ sàng”.

“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ.

Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh bộc lộ đầy đủ hơn trong cuộc mua bán Kiều. Miệng nói những lời hoa mỹ: 

Rằng:”Mua ngọc đến Lam Kiều”  

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Nhưng hành động của y lại hoàn toàn trái ngược. Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.

Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học, hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn người, từ ngoại hình đến tính cách. Mã Giám Sinh trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.

Nói đến Kiều trong toàn bộ cuộc mua bán này, Nguyễn Du đã để cho Kiều câm lặng, không nói được một lời nào. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được.

Nguyễn Du đã sử dụng một loạt hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, để diễn tả tâm trạng của Kiều khác hẳn với đoạn miêu tả Kiều trong cuộc mua bán ở “Kim Vân Kiều truyện”, từ đầu đến cuối, Kiều tuyệt nhiên không nói một lời. Điều đó chứng tỏ sự sáng tạo của Nguyễn Du, sự am hiểu sâu sắc và thấu đáo tâm lý nhân vật của đại thi hào.

Nguyễn Du không đưa ra một lời nhận xét, đánh giá trực tiếp nhưng qua một loạt các hình ảnh, từ ngữ miêu tả dáng vẻ, tâm trạng Kiều “Ngại ngùng dợn gió e sương…..mặt dày”, “nét buồn……..như mai” chúng ta cũng cảm nhận được sự cảm thông, xót xa cho người con gái đẹp tài hoa nhưng đã bị những thế lực hắc ám trong xã hội phong kiến ( bọn buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền) chà đạp, biến thành một món hàng giữa chợ.

Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm. Ông đã phơi bày một cách chân thật bản chất đê tiện, xấu xa của Mã Giám Sinh đồng thời lên án xã hội phong kiến, tố cáo gay gắt sự tàn nhẫn của đồng tiền và những kẻ xấu xa đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.

Bài mẫu 3: Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.

Bài làm

Thân phận của người con gái vốn đã rất mong manh, sinh ra vào thời phong kiến lại càng phải chịu nhiều những đau đớn và tủi nhục. Thúy Kiều một nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du là tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ lúc bấy giờ. Nguyễn Du đã đánh những lời ai oán, đau đớn nhất để nói về cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều”, đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều bị mua đi bán lại như món hàng vô tri vô giác.

Thuý Kiểu là người con gái tài sắc của một gia đình trung lưu nền nếp. Trong tiết Thanh minh, Thuý Kiểu tình cờ gặp Kim Trọng. Hai người nhanh chóng yêu nhau rổi hẹn ước thề nguyện. Bỗng dưng, Vương viên ngoại b| thằng bán tơ vu oan. Gia đỉnh tan nát, cha và em trai bi bắt bớ, đánh đập, Thuý Kiều đành phải bán minh chuộc cha rổi rơi vào lẩu xanh lán thứ nhất. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm. Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.

Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết:

Ghế trên ngòi tót sỗ sàng.

“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất

Khác màu kẻ quỷ người thanh

Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.

Bản chất của Mã Giám Sinh lại càng rõ hơn khi hắn:

Đắn đo cân sức cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè"mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.

Cò kè bớt một thêm hai

Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.

Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.

Chính vì sự tủi nhục khi phải bán mình, lại càng đau đớn hơn khi bán cho một tên buôn người bỉ ổi và đê tiện như Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã không để cho Kiều nói được một lời nào trong suốt cuộc buôn bán, kỳ kèo của Mã Giám Sinh. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã được Nguyễn Du đẩy lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được. Tâm tình nàng Kiều lúc này thật ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,… Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương :

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.

Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng.Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các :

Ngại ngùng dơn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trong gương mặt dày.

Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:

Mối càng vén tóc bắt bắt tay

Nét buồn như cúc điệu gầy như mai

Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt  bán người trong xã hội, Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương  tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo. Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm.

Đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.